Hàng năm Tết Trung Thu đến với chúng ta vào rằm tháng Tám âm lịch.
Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn màu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.
Các trẻ em đón Tết có những đèn xếp, đèn lồng sặc sỡ thắp sáng kéo nhau thành từng đoàn vui reo ca hát, tối tối cùng nhau nhởn nhơ, cùng đi đường này ngõ khác.
Và khi rằm tới, có những đám múa lân rầm rộ, ngoài Bắc gọi là múa sư tử, với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt.
Vậy Tết Trung Thu là Tết gì?
Trung Thu là giữa mùa thu. Tết Trung Thu như tên gọi, đến với chúng ta đúng giữa mùa Thu, mùa mát mẻ đẹp đẽ nhất trong năm với trăng trong gió mát.
Nguồn gốc tết trung thu
Theo sách cổ thì Tết Trung Thu bắt đầu từ đời nhà Đường; thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh.
Nguyên năm đó, vào đêm rằm tháng Tám, trời thật là đẹp, trăng tròn sáng tỏ, gió mát hây hây. Thấy cảnh đẹp của đất trời, nhà vua ngự chơi ngoài thành tới mãi trời khuya. Lúc đó có một ông già đầu bạc phơ trắng như tuyết, chống gậy tới bên nhà vua.
Trông người và theo cử chỉ, nhà vua đoán ngay là một vị thượng tiên giáng thế.
Ông già kính cẩn chào nhà vua rồi hỏi:
– Bệ hạ có muốn lên thăm cung trăng không? Nhà vua liền trả lời “có”.
Vị tiên liền đưa chiếc gậy lên trời, hóa phép ra một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, còn một đầu giáp xuống đất. Tiên ông đưa nhà vua trèo lên cầu vồng, chẳng bao lâu đã đến cung trăng. Phong cảnh nơi đây thật đẹp, một vẻ đẹp khác xa nơi trần thế. Có những tiên nữ nhan sắc với những xiêm y cực kỳ lộng lẫy, xinh như mộng, đẹp như những bài thơ, nhảy múa theo những điệu vô cùng quyến rũ, đủ muôn hồng ngàn tía.
Nhà vua đang say sưa với những cảnh đẹp thì tiên ông lại đưa nhà Vua trở lại cung điện.
Về tới trần thế, nhà vua còn luyến tiếc cảnh trên cung Quảng và những giờ phút đầy thơ mộng nhà Vua đã qua ở nơi đây.
Để kỷ niệm cái ngày du Nguyệt điện, nhà Vua đặt ra Tết Trung Thu.
Trong ngày Tết này, người ta uống rượu thưởng trăng, và vì vậy Tết này còn được gọi là Tết Trông Trăng.
Trăng với trung thu
Tết Trung Thu sơ khởi là Tết Trông Trăng, vậy đã nói đến Tết Trung Thu không thể bỏ qua Trăng được, Trăng đã được in hình trên mặt bánh Trung Thu. Trăng đã được vẽ trên mặt đèn đêm rằm tháng Tám.
Trăng là gì? Qua những bài học trong lớp tiểu học, trăng là một hành tinh của hệ thiên hà và xoay quanh trái đất, mỗi vòng là một tháng theo âm lịch. Ta thấy được mặt trăng nhờ ánh sáng mặt trời chiếu vào. Tùy theo vị trí của trăng với mặt trời đối với quả đất, ta thấy trăng khuyết hay tròn. Khi nào bóng quả đất che kín hết mặt trăng là có nguyệt thực, xưa ta gọi là “Gấu ăn trăng”.
Trước kia mỗi lần có nguyệt thực, ta cho là có loài Gấu trên trời ăn mất mặt Trăng, nên đem chậu thau, mâm đồng, thanh la, não bạt ra gõ cho tới khi hết nguyệt thực, tức là tới khi gấu sợ tiếng gõ ở trần gian phải nhả mặt trăng ra.
Trăng theo quan niệm đông phương
Người phương Đông ta xưa còn hiểu trăng theo nhiều lối khác.
Trăng là cung Quảng Hàn của chư tiên, nơi Đường Minh Hoàng đã được lên du ngoạn và đã được thưởng thức ở đó hai điệu múa nghê thường và vũ y do các tiên nữ xiêm y lộng lẫy ca múa và là nguồn gốc của Tết Trung Thu.
Theo sách “Thiên văn chí” của Tàu thì mặt trăng là khí Thái Âm kết tinh, Thái Âm là hơi lạnh và Thái Dương là hơi nóng. Mặt trăng thuộc quyền của vị nữ thần Thái Âm vợ của thần
Thái Dương tức là mặt trời.
Thái Âm thần nữ ngự ở Quảng Hàn cung, toàn bằng ngọc lưu ly, trong suốt như pha lê, hào quang chói lọi nhưng lúc nào cũng giá lạnh như băng.
Thái Âm thần nữ cai quản một số các tiên nữ và những linh vật.
Như trên đã nói, trên cung trăng có nhiều linh vật thuộc quyền cai quản của Thái Âm thần nữ. Những linh vật này đều hiền từ ngoan ngoãn, và trong số đó đáng kể nhất là hai con Thiềm thừ và ngọc thỏ.
Con thiềm thừ
Thiềm thừ là một giống cóc, đầu có sừng bằng thịt, bụng có vệt chữ bát màu đỏ.
Theo truyền thuyết, tiền thân Thiềm thừ là nàng Hằng Nga, vợ chàng Hậu Nghệ, vua xứ Hữu Cung, có tài thiện xạ bách phát bách trúng. Hậu Nghệ có dịp lên vườn Lãng Uyển, xin đức Giao Trì Vương Mẫu ban cho thuốc trường sinh bất tử. Mang thuốc về, Hậu Nghệ không uống ngay, phải mang quân đi đánh giặc nên cất thuốc vào lò.
Ở nhà Hằng Nga đã ăn trộm thuốc trường sinh uống, rồi nàng bay lên mặt trăng và ra mắt Thái Âm thần nữ, kể rõ sự tình, cầu xin thần nữ che chở.
Thái Âm thần nữ biến Hằng Nga thành con Thiềm thừ, đem giấu ở một nơi kín đáo trong cung Quảng Hàn.
Hậu Nghệ đi trận về thấy mất cả vợ lẫn thuốc trường sinh tức giận lắm. Chàng cho là vợ đã lên trời, chàng quyết tìm nàng cho bằng được.
Thời ấy, trên trời có mười mặt trời. Ngờ vợ ẩn trong những mặt trời này. Hậu Nghệ đã bắn rơi chín mặt trời nhưng không thấy vợ. Hậu Nghệ bớt lại mặt trời thứ mười để lấy ánh sáng ban ngày, cũng như chàng không bắn rơi mặt trăng vì ban đêm chỉ có một mặt trăng. Chàng cần có ánh sáng ban đêm để soi đường cho chàng đi tìm vợ. Chàng không tìm thấy Hằng Nga, nàng vẫn biến hình ẩn núp trong cung Quảng cho tới ngày nay.
Con ngọc thỏ
Con Ngọc Thỏ sự tích như sau:
Nguyên ngày xưa có thời mất mùa, người vật đều nhịn đói. Các loài vật khó kiếm thức ăn, tàn sát lẫn nhau.
Loài thỏ yếu đuối, không khí giới tự vệ, không dám thò ra ngoài kiếm ăn. Chúng đành nằm một chỗ kín đáo cùng nhau nhịn đói. Đã đói lại rét, chúng rủ nhau tới một đống lửa, không biết có ai đốt sẵn, nằm quanh đống lửa nhìn nhau, con nào mắt cũng ươn ướt hoen lệ.
Trước tình trạng não nề ấy, một con thỏ vì thương đồng loại, nhảy mình vào đống lửa tự thui để những con khác có cái ăn cho đỡ đói.
Vừa lúc ấy, đức Phật đi qua. Ngài thầm khen nghĩa khí của con vật. Ngài nhặt nắm xương tàn của nó, hóa phép cho nó thành hình khác toàn bằng ngọc thơm tho và trong sáng, đưa nó lên cung Quảng Hàn, xin cho nó một viên thuốc trường sinh và nói với Thái Âm thần nữ cho nó được lưu lại ở đây.
Bài viết được tổng hợp và giới thiệu bởi cơ sở sản xuất chổi Bông May. Chúng tôi chuyên cung cấp chổi quét nhà cuốn kẽm, chổi quét nhà cán nhựa với giá xuất xưởng.
Cây đan quế
Ngoài các linh vật ở cung Quảng Hàn còn có bóng một cây mà ở trần giới ta nhìn lên thấy hình đen trên mặt trăng. Đó là cây Đan quế tức là cây quế đỏ.
Truyền thuyết, theo sách Trung Hoa cũ, cây này cao một trăm linh năm thước, gốc lớn vô cùng, đường kính ước vài ba trượng. Cây sống hàng ngàn vạn năm. Gỗ và vỏ rắn như thép. Gốc cây có nhiều vết băm bổ vì quanh năm lúc nào cũng có người cầm búa bổ vào gốc cây. Ở mặt đất nhìn lên ta thấy bóng đen của người đó ở gốc cây.
Người đó, ta gọi là thằng Cuội, nhưng theo người Tàu thì hắn là Ngô Cương. Xưa kia Ngô Cương đã tu tiên đắc đạo, nhưng sau vì làm nhiều điều càn bậy trong chốn tiên cung, bị đức Ngọc Hoàng nổi giận đày xuống cung trăng, giao cho việc chặt và bóc vỏ cây Đan quế. Cây Đan quế cứng như thép, đâu có như cây quế thường, Ngô Cương chặt làm sao nổi và bóc làm sao cho được vỏ. Bởi vậy cho tới ngày nay, Ngô Cương vẫn cố chặt cây này và bóc vỏ để người trần chúng ta, mỗi đêm trông lên lại thấy bóng chàng “lúi húi” ở gốc cây.
Truyện thằng cuội
Đã nói đến Ngô Cương của người Tàu, lẽ đâu ta lại quên mất Thằng Cuội của chúng ta. Ca dao có câu:
“Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời!
Cha còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.”
Thằng Cuội là ai? Chính là cái bóng người trên cung trăng mà người Tàu gọi là Ngô Cương và cây Đan quế của người Tàu, đối với chúng ta chỉ là cây Đa thần.
Sự tích thằng Cuội ắt hẳn chúng ta ai cũng biết. Đó là một kẻ đi nói dối cha về nhà nói dối chú. Suốt đời chỉ nói dối đánh lừa người.
Sau cùng nó đã đánh lừa được một lão trượng hiền lành, và lão trượng này đã cho nó một cây đa thần có thể dùng lá chữa được người chết sống lại. Lão trượng dặn nó mang về phải luôn luôn tưới cho cây tươi tốt.
Cuội nghe lời lão trượng mang cây về trồng ở mé Đông và dặn vợ phải hàng ngày tưới nước cho cây.
Lão trượng cũng lại dặn Cuội là Cây Đa thần kỵ nước tiểu, trồng cây ở hướng Đông thì mọi người phải đi tiểu về hướng Tây, bằng không cây sẽ dông lên trời mất.
Về nhà Cuội cũng dặn vợ và người nhà:
– Có tiểu thì tiểu đằng Tây, chớ tiểu đằng Đông cây dông lên trời.
Hàng ngày Cuội vào rừng đốn củi, ở nhà vợ Cuội vẫn tưới cây rất chăm chỉ. Cho đến một hôm vì vợ Cuội mải mê công việc khác quên không tưới cây, chợt Cuội về đến ngõ, vợ Cuội mới nhớ ra nhiệm vụ của mình. Sợ đi múc nước tưới cây, chồng trông thấy sẽ mắng là mình sơ ý, nàng vội vàng chạy tới gốc cây, ôm váy lên… tiểu vào đó! Nàng đã phạm điều thiêng.
Nàng vừa tiểu vào gốc cây, cây bỗng từ từ bật gốc và bay lên trời. Cuội vừa về tới nơi, thấy cây dông lên trời, sẵn tay có chiếc cuốc, liền móc ngay vào gốc cây mong giữ được cây lại, mà chính Cuội lại theo cây Đa lên trên cung Quảng mất. Chẳng biết ở trên cung trăng, Cuội có nhìn xuống trần gian để ngắm chúng ta không, nhưng trần giới chúng ta, hàng năm, rằm tháng Tám, nhất là trẻ em vừa phá cỗ vừa trông trăng, trông Cuội.
Đọc thêm:
Nghi lễ cung đình Huế
Phong tục truyền thống Việt Nam vào Tết Nguyên Đán
Những tục lệ trong ngày tết trung thu
Trong ngày Tết Trung Thu để thưởng trăng có nhiều cuộc vui được bày ra, có cuộc vui riêng trong gia đình, có cuộc vui công cộng. Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em.
Thi cỗ và thi đèn
Trong Tết Trung Thu người ta bày cỗ có bánh trái hình mặt trăng, trưng đèn kết hoa, có nhảy múa ca hát và nhiều nơi có những cuộc rước đèn, múa lân rất tưng bừng náo nhiệt.
Trăng hôm rằm tháng Tám thường trong và đẹp.
Để thưởng thức trăng trong gió mát, các văn nhân thi sĩ bày ra ngâm vịnh trước những mâm cỗ, dưới ánh trăng với bánh Trung Thu hình mặt trăng.
Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh Trung Thu. Đây là dịp khuyến khích các bà nội trợ và các cô gái trong việc nữ công.
Lại có treo đèn kết hoa để mâm cỗ thêm màu sắc, bánh mứt nhiều hoa mỹ, cuộc thi do đó thêm tưng bừng.
Các trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn: đèn làm hình mặt trăng, làm hình các ngôi sao, các loài thú v.v…
Trông trăng chơi đèn đêm rằm tháng Tám để nhớ lại sự tích Đường Minh Hoàng du nguyệt điện.
Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em, và trong mâm cỗ xưa kia thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, chung quanh là bánh trái hoa quả.
Sau khi chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ vào lúc đã khuya, nghĩa là cùng nhau ăn mâm cỗ này, ngắm trăng, ca múa.
Sản phẩm của Bông May:
Chổi chà giá rẻ
Chổi quét nhà cán nhựa bỏ sỉ
Hát trống quân
Về tháng Tám có tục hát trống quân (ở miền Bắc), nam nữ đối đáp cùng nhau.
Sách chép rằng tục hát trống quân bắt đầu từ đời nhà Tống, dưới triều vua Tống Nhân Tôn.
Nguyên thời đó thường có giặc, quân lính phải luôn đi trận, khi Tết Trung Thu đến nhớ nhà, trễ nải việc binh nên ông Bao Chuẩn mới đặt ra lời hát trống quân với những câu hát cho quân lính tranh đua nhau đối đáp, quên bớt nỗi nhớ quê hương.
Dân chúng thấy lối hát hay hay, hàng năm tới Tết Trung Thu cũng hát trống quân để thưởng trăng, nam nữ đối đáp cùng nhau.
Trống quân lập ra ở các thôn xóm bằng những vật liệu rất rẻ tiền. Trước hết là một chiếc thùng gỗ hoặc thùng sắt tây rỗng. Trên mặt thùng có căng một sợi dây gai chắc hoặc một dây thép hai đầu buộc chặt vào hai chiếc cọc đóng xuống đất ở hai bên chiếc thùng, cách xa chiếc thùng mỗi bên chừng hơn một thước. Muốn cho dây được thật căng, dùng một hoặc hai que nhỏ chụm vào nhau, chống đỡ sợi dây trên mặt thùng.
Đánh trống quân, có những chiếc dùi tre nhỏ bằng cỡ chiếc thước kẻ. Dùi đánh vào chiếc dây căng bật ra những tiếng “thình thùng thình” là nhịp cho câu hát:
“Trống quân, trống quýt, trống còi,
Ta chẳng lấy nó, nó đòi lấy ta,
Thình thùng thình
Trống quân anh đánh nhịp ba,
Lúc vào nhịp bảy, lúc ra nhịp mười. Thình thùng thình”
Hát trống quân đôi bên nam nữ đối đáp với nhau bằng những câu hát vận, nghĩa là hát theo vần, theo ý, hoặc bằng những câu hát đố, nghĩa là hát để đố nhau. Có khi những câu hát đã có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra.
Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc.
Về nguồn gốc hát trống quân, có người cho rằng lối hát này thuần túy Việt Nam, bắt đầu từ thời nhà Trần.
Thời đó, khi chúng ta phải chống quân Nguyên, đức Trần Hưng Đạo đặt ra lối hát trống quân để quân lính mua vui với nhau.
Ông Văn Thôn, trong văn hóa Nguyệt San số 23 (trước đây), lại cho là tục hát trống quân mới có từ đời vua Quang Trung, ông đã viết:
“Riêng về nước ta, vị anh hùng dân tộc Quang Trung cũng đánh dấu ngày rằm tháng Tám bằng một cử chỉ không nhuốm vẻ hoang đường, đài các nhưng vô cùng thiết thực mà nên thơ, muốn cho binh sĩ theo ngài đi đánh đông dẹp bắc quên nỗi nhớ nhung quê hương, vua Quang Trung đã cho họ trong các giờ nhàn rỗi, nhất là các đêm có gió mát trăng thanh, cùng nhau hội họp, để vừa hát đối, một bên Nam, một bên giả Nữ, vừa đánh nhịp vào một đường dây thép, căng trên một chiếc thùng rỗng ruột. Nhân dân thấy hay và lạ đã bắt chước rồi áp dụng vào cuộc tiêu khiển vào ngày hội rằm tháng Tám, mà gọi đó là tục “hát trống quân”…
Múa sư tử (múa lân)
Vào dịp Tết Trung Thu lại có tục múa Sư tử, còn gọi là múa Lân. Cứ bắt đầu từ mồng bảy mồng tám trở ra, xưa kia, tại các đô thị cũng như ở vùng quê những đám múa Lân được tổ chức, có đám hoàn toàn của người lớn, có đám của riêng trẻ em. Người lớn thường chỉ họp đoàn múa Lân vào hai đêm mười bốn và rằm, và trong những ngày này, các tư gia thường có treo giải để các con Lân lấy. Giải thưởng bằng tiền treo trên cao, đám múa Lân phải bắt thang mới chiếm được. Các trẻ em múa Lân sớm hơn, các trẻ em tổ chức múa Lân để cùng nhau mua vui, không có mục đích đi lấy giải, tuy nhiên nếu có ai yêu mến các em, gọi các em lại treo giải, các em cũng xin lĩnh.
Đám múa Lân thường gồm có một người đội một chiếc đầu sư tử bằng giấy và múa với những điệu bộ của con vật này, khi chồm lên, khi bò xuống. Đầu sư tử có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo điệu bộ của người múa Lân và theo nhịp trống của đám múa.
Có trống, có thanh la, có não bạt, có đèn sặc sỡ, có cờ ngũ sắc. Có người cầm côn đi hộ vệ đầu Lân. Lại có người vác chiếc thang đi theo để khi cần lĩnh giải thì người múa Lân sử dụng. Đám múa Lân đi trước, người lớn trẻ em đi theo sau. Tới trước mỗi nhà có treo giải, đám rước ngừng lại. Trong lúc Lân múa để lĩnh giải có đốt pháo. Ngày nay tục này vẫn còn một số nơi.
Sự tích múa sư tử
Theo sách cổ truyền lại, sự tích múa Lân như sau:
Về đời nhà Đường, có một bà lão, tuổi đã cao, nhưng không có con cái họ hàng, quanh năm chỉ lấy nghề may vá áo quần đem ra chợ bán để nuôi thân. Một hôm vào ngày rằm tháng Tám, bà đến một làng kia để nhận quần áo về may. Khi trở về vào lúc tối trời bà thấy dân làng đều thi nhau thắp đèn bày cỗ, ăn uống vui vẻ. Hỏi thì dân làng cho biết là họ ăn Tết Trung Thu.
Bà nghĩ rằng dù bà có một mình bà cũng thưởng trăng được, bà bèn mua ít bánh trái hoa quả về để thưởng trăng dối già. Trên đường về khi đi qua khu rừng vắng vẻ thì có con Sư tử xông ra, đây là con Sư tử dữ tợn vẫn thường bắt người ăn thịt. Biết mình không tránh nổi con Sư tử, bà lão van xin nó cho bà về thưởng trăng để bõ công bà đi mua bánh trái hoa quả, sau đó bà sẽ đến nộp mình cho nó ăn thịt.
Sư tử ưng thuận quay đi nơi khác để bà lão về nhà bình yên vô sự.
Bà lão bày cỗ thưởng trăng, nhưng khi trăng bắt đầu mờ dần trong bóng mây, bà chạnh nhớ tới giờ phút cuối cùng của mình liền khóc lóc thảm thiết.
Tiếng khóc của bà kinh động tới quỷ thần. Quỷ thần liền sai một con Rết tới trước mặt bà, ra hiệu cho bà yên tâm và nó sẽ giúp bà trừ con Sư tử độc ác!
Dù không hiểu hết ý muốn của con Rết, nhưng bà cũng yên lòng trước cử chỉ của nó.
Vừa lúc ấy, con Sư tử tới để đòi ăn thịt bà. Con Rết liền nhảy ra cắn chết nó.
Ngày hôm sau bà loan tin với dân làng việc thần linh đã sai con Rết giết con Sư tử.
Tin đến tai Vua, vua ban thưởng cho bà lão. Từ đó hàng năm nhắc lại sự tích con Sư tử hay ăn người bị giết vào Tết Trung Thu, người ta có tục “múa Sư tử”.
Qua các điều trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng Tết Trung Thu trước kia là Tết của người lớn, nhưng đã dần biến thành Tết của thiếu nhi, và trong dịp này, người lớn đặc biệt săn sóc tới các trò vui của trẻ em.
Nhân đó, các trẻ em côi cút, tàn tật, bệnh hoạn được các cơ quan từ thiện đến tận nơi phân phát cho đồ chơi và quà bánh, nhất là đèn giấy và bánh Trung Thu để các em kém may mắn này cũng có một Tết Trung Thu như các em khác.
SẢN PHẨM CỦA BÔNG MAY
Bông May cung cấp vật tư vệ sinh trường học tại TP.HCM
Cung cấp chổi cỏ vệ sinh trường học – Giá đặc biệt
Cung cấp sọt nhựa tròn, bầu, vuông Duy Tân giá sỉ (Xuất VAT)
Chổi cọng dừa giá sỉ tại chổi Bông May
May đồ bảo hộ lao động giá rẻ cho công ty, xưởng sản xuất
Bán chổi đót chổi dừa và dụng cụ vệ sinh giá sỉ tỉnh Bình Dương
Cung cấp chổi quét sân trường học – giá rẻ nhất
So sánh Inox 304 và Inox 201 trong gia công đồ dùng
Cung cấp chổi dừa bến tre giá sỉ
BÀI VIẾT HAY
Quy trình sản xuất chổi bông cỏ (Chổi đót)
Th8
Hướng dẫn thiết kế một khu vườn nhỏ cho ngôi nhà của bạn
Th11
Truyền thống đặt tên và dạy con của người Việt
Th11
Tục tế lễ của người Việt
Th3
Phép địa lý Phong thủy của người Việt xưa
Th3
Cách xưng hô và thứ bậc trong gia tộc và xã hội Việt Nam xưa
Th6
Tìm hiểu nguồn gốc làng xã Việt Nam
Th11
Cô lái đò suối
Th10
Không nên trực tiếp ăn phấn hoa
Th1
Những người không nên ăn chuối tiêu
Th1