Đời sống Việt Kiều tại Cao Miên (Campuchia)

doi song viet kieu tai cao mien

LÊ HƯƠNG

L.T.S : Tác giả, Lê Hương nguyên là giáo chức tại tỉnh Svay-Riêng, sinh sống ở Cao Miên từ năm 1942. Năm 1953-1957, Lê Hương trợ bút qua các báo Việt kiều như : Dân Việt, Việt kiều, Hồn Việt tại Phnom-penh. Cuối năm 1957 tác giả trở về Việt-nam, qua tập tài liệu hồi ký này, ghi lại dòng lịch sử tương quan Việt Miên trong thực trạng sống.

1. Nguồn gốc cuộc di cư

So sánh với số Việt kiều sống trên các quốc gia bạn ở khắp thế giới, Việt kiều ở Cao Miên có nhiều điểm đặc biệt và quan trọng về mọi phương diện hơn hết. Từ vấn đề Xã hội, Kinh tế, Tôn giáo, Văn hoá đến Chánh trị, tổng số người Việt tha hương này là một gánh nặng cho Chánh phủ, nếu không, cũng là một mối ưu tư cho những kẻ biết thương giống nòi.

Ngược lại thời gian, ta có thể cho rằng người Việt đầu tiên để chân lên đất bạn là đoàn quân nhà Nguyễn sang bảo hộ Cao Miên chống nạn xâm lăng của nước Xiêm. Đó là căn cứ theo tài liệu chánh thức, còn trước đây đã có một số người Việt sang định cư nhưng không được chứng minh rõ ràng. Bấy giờ Vương quốc Cao Miên còn gọi là Chân lạp 21, vào năm 1808, vị Quốc Vương tên Ông-Chân (ANG CHAN II) xin thần phục nhà Nguyễn. Người em của Nhà Vua theo nước Xiêm đem binh về đánh phá. Năm 18I0, nhà Nguyễn dẹp yên, sai ông Lê-văn-Duyệt đưa Vua Ông-Chân về nước. Vua Gia Long cử ông Nguyễn-văn-Thụy đem I000 quân sang Cao Miên đóng giữ và đặt nền bảo hộ nước này. Nhiều người thường dân di cư ở rải rác khắp các vùng giáp giới. Dưới thời Pháp thuộc Việt kiều có cất một ngôi đền “Thượng đẳng thần đình” thờ ông Nguyễn-văn-Thụy trên đại lộ Pierre Pasquier, sau đổi lại là Monivong, gần Chợ mới Nam Vang, hằng năm đều có cúng tế long trọng. Năm 1957, Chánh phủ Cao Miên bảo dời ngôi đền để chỉnh trang thành phố. Vì không đủ phương tiện, Ban Quản trị Liên đoàn Việt kiều rước bài vị vào một ngôi chùa Phật tạm thời mãi đến ngày nay (1969) vẫn chưa cất được ngôi đền khác.

Dấu vết của người Việt tiền phong thuở ấy là những cây cột cầu bằng gỗ trai, một loại gỗ quý màu đen, rắn chắc như kim khí chôn dưới đất mấy trăm năm không mục. Người sau này còn thấy ở những lòng suối cạn trên đường tiến quân từ kinh đô Oudong lên Siem Reap, biên thùy Miên-Thái. Di tích thứ nhì là miễu thờ ông Nguyễn Kỉnh, tục gọi là Miễu Cậu Kỉnh ở trong một khu rừng thuộc tỉnh Kratié, gần bộ lạc người Thượng Chlong. Nguyên sau khi thống nhất đất nước, Vua Gia long sai ông Nguyễn Kỉnh lên thủ đô Phnom-Penh xin Vua Cao Miên một cây trai để làm cột cờ ở Huế. Vua Miên chấp thuận cho người đưa ông Kỉnh vào rừng nơi có một cây trai gốc to bằng bốn người ôm. Người trong vùng nói rằng cổ-thụ này có Thần nhập nên thợ rừng và thổ dân không ai dám động tới. Theo lời Việt kiều truyền tụng thì ông Kỉnh phải tự sát, những người thợ mới đốn được cây đưa về Triều. Vua Gia long cảm thương một viên chức hy sinh cho sứ mạng, phong Nguyễn-Kỉnh làm Thần và lập miễu thờ ngay gốc cây trai. Trải qua hơn một thế kỷ ngôi miễu vẫn còn linh thiêng. Việt kiều, người Miên và người Thượng Chlong rất kính nể.

Năm 1845, người Miên nổi dậy chống chế độ cai trị của ông Trương-minh-Giảng, quân ta rút về. Người Pháp được Cao Miên mời đến bảo hộ. Trong số I.000 quân lính có người bị thất lạc hàng ngũ, hoặc muốn ở lại tìm cách sinh nhai nên gia nhập vào số đồng bào định cư từ trước hợp thành một nhóm Việt kiều đáng kể. Chính họ làm cái móc cho những kẻ đến sau.

Nhóm người thứ nhì là nạn nhân của cuộc tàn sát tín đồ Thiên Chúa giáo theo lịnh Vua Tự đức vào khoảng 1855-1856. Thuở ấy, đạo Gia-tô bị Triều đình coi là một quái tượng và gọi là Hoa lang đạo. Người Việt nào tin theo thì bị bắt xăm trên trán bốn chữ “Học Hoa lang đạo”. Nhiều trận chém giết nổi lên khiến một số con chiên phải bỏ xứ chạy lên Cao Miên quy tựu thành một xóm Việt kiều gần bên Cầu lầu (Pont des Dollars) ở Phnom Penh gọi là Xóm Hoa Lang. Dần dần nhiều người nói sai tiếng Hoa là Hòa thành ra xóm Hòa Lan và quen miệng gọi đến bây giờ.

Những tín đồ Thiên Chúa giáo nầy định cư hơn một thế kỷ truyền đến nay được năm, sáu đời. Đám con, cháu hiện giờ có người không biết quê hương của Tổ-tiên mình ở tỉnh nào trong nước Việt-nam. Tổng số Việt kiều theo đạo Gia-tô gọi là “đạo giòng” rất quan trọng so với toàn thể Kiều bào ở Cao Miên. Đó là một điều oái oăm trên một quốc gia lấy đạo Phật làm quốc giáo và tất cả dân chúng đều theo đạo Phật.

Việt-nam và Cao Miên bị người Pháp thống trị, rồi người Việt ồ ạt sang đất bạn tìm mưu sống. Thành phần Kiều bào gồm đủ hạng trong xã hội : nông dân, buôn bán, tiểu công nghệ, đặc biệt nhất là nhóm “bạn biển” (những người làm nghề đánh cá ở nước Biển hồ), học sinh, sinh viên lỡ vận ở nước nhà và công chức. Người làm ruộng được phép khai khẩn đất hoang, nộp thuế cho nhà nước Bảo hộ rồi làm chủ như ở quê hương. Đất Miên rộng, người Miên ít, tha hồ cho kẻ siêng năng khai thác. Người nào không đủ sức thì cày thuê, gặt mướn dành dụm ít lâu cũng mua được mảnh ruộng con, dư sống suốt đời.

Giới buôn bán thì phát đạt vô cùng. Lợi dụng tánh thật thà chất phác của ông bạn láng diềng, Việt kiều làm giàu rất nhanh trong nghề đổi chác.

Về ngành tiểu công nghệ, Việt kiều đứng số một ở Cao Miên vì hầu hết những nghề của họ đều là nghề đặc biệt, không ai bắt chước được.

Vượt lên cao hơn hết là giới trí thức. Người Miên chậm tiến hơn ta, lại giữ gìn quá kỹ lưỡng phong tục, tập quán của họ nên ít chịu tiếp xúc với người Pháp, do đó bộ máy hành chánh không đủ người điều khiển ; Chánh phủ Pháp phải đưa một số đông công chức Việt-nam và thâu nhận Việt kiều vào các công sở. Có thể nói nước Cao Miên nhờ người Việt một phần lớn trong vấn đề khai hóa dân tộc và mở mang xứ sở. Trong tất cả các cơ quan từ thủ-đô đến các tỉnh, công chức Việt kiều giữ hầu hết địa vị quan trọng. Các cấp chỉ huy người bản xứ có chăng cũng để cho có vị thôi.

Đáng kể nhất là trong ngành Giáo dục, Việt kiều cũng chiếm một phần quan trọng, chuyên dạy trẻ em Việt và trẻ… Miên. Và chính những cậu học trò Miên học với giáo viên Việt sau này trở thành Giáo, thay thế các thầy của mình.

Nhờ vấn đề cần dùng thiết yếu ấy mà sinh viên Việt-nam thích lên Cao Miên học hơn là ở nước nhà. Thuở ấy, có mảnh bằng Tiểu học đã có việc làm ngay ở công sở nào tùy ý muốn.

Tổng số Việt kiều tính đến năm 1945 lối 300.000 người, theo con số kiểm tra của người Pháp năm 1969 vượt lên 400.000 sau khi có một số hồi hương bị trục xuất và một số mới trốn sang !

Định cư ở đâu?

Việt kiều ở khắp lãnh thổ Cao Miên. Du khách đi đến tỉnh nào, quận nào cũng gặp người Việt, cũng có người biết tiếng Việt. Nhưng tổng số ở nhiều hay ít tùy theo nghề nghiệp và địa thế của địa phương.

Tại thủ-đô Phnom Penh, Việt kiều ở nhiều nhất, sống với hầu hết các nghề trong xã hội : công chức, tư chức, buôn bán, tiểu công nghệ. Người Việt ở đông cho đến nỗi người Miên, Hoa kiều đều biết tiếng Việt để giao thiệp hằng ngày. Đó là cái rún của lãnh thổ Miên, là nơi tiếp nhận đầu tiên của người có máu giang hồ. Khăn gói gió đưa, đến Phnom Penh rồi sẽ tính, ở được thì đóng đô luôn, không thì lại lên đường sang tỉnh khác.

Ở các tỉnh sát biên giới Việt, như Svay Riêng, Kandal, Prey Veng, Takeo, đồng bào ta sang thuê đất làm ruộng, hoặc khai khẩn đất hoang, lần lần trở thành chủ nhân ông, điền chủ như ở nước nhà. Nguyên do vì người Miên ít lại ưa nhàn, không chịu khó nên đại đa số đất đai bỏ hoang hàng mấy thế-kỷ, nên người Việt tha hồ trổ tài. Tổng số Việt kiều ở gần biên giới trong 3 tỉnh Svay Riêng, Kandal, Prey Veng đông đến Chánh phủ Bảo hộ Pháp phải lập thành làng như Kim Tấn (Svay Riêng), Vĩnh Lợi Tường (Prey Veng), Mỹ Quí (Kandal) và đặt vị Xã Trưởng (Mékhum) và vị Cai Tổng (Chauvay Khand) người Việt. Để chứng tỏ lập luận trên, chúng tôi xin nhắc lời của Quốc trưởng Sihanouk trong một cuộc họp báo hằng tuần ở Nam Vang vào năm 1956. Đề cập đến tình trạng kinh tế, Quốc trưởng Cao Miên than phiền dân Miên không có ý muốn sống với nghề nông, chỉ muốn ở thành phố để làm… công chức. Ông nhắc lại rằng trong cuộc hành quân Samakki vào năm 1954 ở vùng Battambang, Siem Reap, ông thấy nhiều thửa đất màu mỡ, chỉ cần bỏ hột giống xuống là nẩy mầm, lên cây ; nhưng hàng trăm năm rồi không ai khai khẩn. Ông kêu gọi dân Miên đến các vùng đó, Chánh phủ sẽ giúp nhà ở, dụng cụ, hột giống, mà không một người nào hưởng ứng. Xét ra thì tại Bộ Lao động có 500 lá đơn của nhóm thanh niên thất nghiệp xin chỗ làm mà chỉ muốn giữ chân thư-ký ! Tuy vậy mấy trăm người ấy vẫn kiên nhẫn ở thủ-đô, ăn gửi nằm nhờ để chờ một cơ hội chứ không chịu về đồng ruộng sống với nghề nông.

Ở những tỉnh khác, trong nội địa, gần biên giới Lào, Thái, Việt kiều ở ít hơn. Đó là một số công chức và người buôn bán ở tại chợ tỉnh lỵ. Ngoài ra có hai nhóm Việt kiều thật quan trọng là dân “Bạn biển” nghĩa là người đánh cá ở Biển hồ (Tonlésap) và “Dân Công tra” (Contrat) là phu Cao su ở các đồn điền Snoul tỉnh Kratié, Mimot, Kret, Chup, Prek Kâk, Chamcar, An đông, Peam Cheléang tỉnh Kompong Cham. Hai nhóm Việt kiều này là một vấn đề nan giải cho Chánh phủ Việt-nam Cộng-hòa trước tình cảnh bi đát của đồng bào sống dưới một chế độ lạ đời nhất thế giới.

Vùng Việt kiều, những địa phương có kiều bào Việt Nam cư ngụ trên đất Cao Miên.
Vùng Việt kiều, những địa phương có kiều bào Việt Nam cư ngụ trên đất Cao Miên.
Đức vua Norodom Suramarit và hoàng hậu tiếp kiến quí vị trong Liên đoàn Việt kiều nhân ngày Tết Cao Miên (1955). Ảnh Lê Hương.

2. Vấn đề nhập Miên tịch

Năm 1945, chánh phủ Hoàng gia Cao Miên ban bố sắc lịnh thâu nhận ngoại kiều nhập quốc tịch Miên với những điều kiện dễ dàng. Hoa kiều và Việt kiều cư ngụ lâu năm, có cơ sở, nhà cửa, công việc làm ăn, công chức, tư chức đều có thể “vào dân Miên” để hưởng những quyền lợi như người Miên.

Thoạt tiên, những người đổi quốc tịch hoàn toàn vì lợi. Hoa Kiều muốn được nhiều quyền lợi trên thương trường liền gia nhập làm người Miên, trong khi vẫn giữ giấy thuế thân là người Tàu do Tòa Lãnh sự Trung hoa cấp ! Chính Quốc trưởng Sihanouk đã phát giác ra điều đó trong cuộc họp báo vào năm 1956 ! Việt kiều cũng vậy, một số thương gia và công chức rầm rộ nạp đơn. Thương gia được lãnh môn bài xuất nhập cảng, công chức được vào ngạch khỏi thi chữ Miên ! Những người này phần nhiều là Việt kiều cố cựu, tổ tiên di cư hàng trăm năm, không còn dính dáng gì đến quê cha, đất Tổ nữa. Kỳ dư vì ý nghĩ tự cao mặc cảm mà không muốn thành người Miên.

Về thể thức không có gì khó khăn, đương sự chỉ hội đủ điều kiện, hồ sơ nộp vào cơ quan phụ trách, rồi trong một thời gian ngắn thì có Nghị-định ngay. Điểm đáng ghi nhận là không tốn kém một món tiền chánh thức hay bí mật nào cả. Chánh phủ Cao Miên mở rộng cửa mời đón ngoại kiều gia nhập dân mình.

Nhưng qua năm 1946, vấn đề này trở thành quan trọng đối với Việt kiều. Vì người Pháp, sau khi tái chiếm Cao Miên, đã “trù” Việt kiều thẳng tay, họ cho rằng người Việt chống họ như ở Việt-nam ! Cuộc kháng chiến càng găng, Việt kiều càng bị dòm ngó, “săn sóc” kỹ lưỡng. Vì thế, người nào mang quốc tịch Miên thì yên thân, được trọng đãi (!) và có thể lên mặt với… kiều bào ! Phong trào nhập dân Miên trở nên sôi động, và lẽ cố nhiên nạn hối lộ liền đi đôi với phong trào như bóng với hình !

Ngoài ra, vấn đề buôn bán với nước ngoài được dành cho người Miên nên số Hoa thương vội vã đổi quốc tịch để xin môn bài xuất nhập cảng. Trên giấy tờ thì là dân Miên nhưng cách sống ngoài đời vẫn là Hoa hay Việt kiều ! Có người còn giữ thẻ căn cước cũ của mình để xài khi về nước ! Chính thái tử Sihanouk, trong buổi họp báo vào tháng 4 năm 1956 đã tiết lộ điều ấy. Thái tử nói ở Cao Miên thì họ là người Miên, sang Thái lan họ là người Tàu ! Vì lẽ đó, Chánh phủ Cao Miên mới ra lịnh bó buộc nhiều khoản trong Nghị định :

1. Đương sự phải đóng 10.000 riels gọi là tiền gia nhập quốc tịch Miên.

2. Sau hai năm, đương sự phải biết nói, đọc và viết chữ Miên, ít nhất là đọc những bảng cáo thị ngoài góc đường hè phố. Những cuộc khảo sát như lối dạy truyền bá quốc ngữ của ta thường diễn ra ở các nẻo đường. Người nào không chịu khó học thì có thể bị trả lại quốc tịch cũ.

3. Trong năm năm, đương sự phải biết và sống theo tập quán, phong tục của người Miên và không phạm một điều lỗi nào đối với xã hội, đối với người Miên chính cống, như : trộm cắp, ăn cướp, làm chánh trị, hiếp đáp kẻ khác ; nghĩa là không tỏ ra mình lợi dụng việc thay đổi quốc tịch để trục lợi cho mình. Đó là cái án treo cho những người ấy !

Càng bó buộc, càng khó khăn thì số tiền hối lộ càng cao. Tiếp đến lịnh cấm 18 nghề cho ngoại kiều và lịnh buộc các tư sở, xí nghiệp phải nhận 75% người Miên đã khiến một số Việt kiều cày cục đổi quốc tịch. Riêng đối với các công chức Việt kiều thì Chánh phủ Cao Miên dành nhiều điều kiện dễ dãi khi nhận đơn xin. Có thể nói mấy ông ấy được mời đổi quốc tịch mới đúng.

Tình trạng này kéo dài thì trong vài mươi năm sau, nước ta sẽ mất một số công dân đáng kể.

Bài viết được biên tập bởi cơ sở chổi Bông May. Chúng tôi chuyên cung cấp chổi quét nhà giá rẻ cho khách hàng thương mại.

3. Vai trò của liên đoàn Việt kiều

Việt kiều ở Cao Miên sống quây quần và đoàn kết với nhau thật chặt chẽ. Càng xa quê hương họ càng thấy cần phải sát cánh với nhau trong cuộc mưu sinh nơi xứ lạ. Trên phương diện tình cảm, mọi người đều bộc lộ sự thân mật và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau, dìu dắt những kẻ mới “gia nhập vào làng”. Nhưng trên phương diện pháp lý, thì có lẽ đây là lần đầu tiên cư ngụ trên lãnh thổ bạn, nên trải qua một thời gian khá lâu : khoảng 80 năm, không có ai nghĩ đến việc thành lập một Đoàn thể, Hiệp hội của Việt kiều để thay mặt toàn thể kiều bào liên lạc với Chánh quyền. Ta phải nhìn nhận kém người Tàu ở điểm này. Chế độ Bang Trưởng của Hoa kiều đã biến tổ chức này thành một Chánh phủ không quân đội trong một Chánh phủ.

Mãi đến năm 1938, mới có người nghĩ ra vấn đề này và ngày I3-6-1938, một Hội Ái hữu đầu tiên ra đời lấy tên là NAM KỲ ÁI HỮU (Amicale Cochinchinoise du Cambodge), viết tắt là A.M.I.C 24. Dạo ấy, nạn chia rẽ Bắc, Nam được người Pháp đào sâu triệt để nên kiều bào không tránh khỏi ảnh hưởng xấu xa ấy. Hội Nam kỳ Ái hữu chỉ nhận Việt kiều quê ở miền Nam gia nhập mà thôi. Người có Pháp tịch cũng được nhận.

Trong khi ấy, một Hội khác được thành lập lấy tên là VIỆT KIỀU TƯƠNG TẾ (Mutuelle des Annamites du Cambodge), viết tắt là M.A.C. Hội lập cùng năm 1938 và nhận tất cả Việt kiều không phân biệt Bắc, Trung, Nam. Cả hai Hội chỉ hoạt động trong phạm vi nhỏ hẹp : phúng điếu Hội viên, vợ hay tứ thân phụ mẫu từ trần.

Mặc dầu có những hai Hội tại thủ đô Nam Vang nhưng hội viên phần đông là giới trí thức, lại không ai đặt kế hoạch giúp đỡ kiều bào nghèo đúng với ý nghĩa tương tế, ái hữu, nên lần lần cả hai Hội chỉ còn là cái hư danh.

Năm 1950, Việt-nam thống nhứt, người Pháp muốn xóa bỏ những tàn tích cũ hầu mua chuộc người Việt. Ông De Raymond, Khâm Sứ ở Cao Miên gởi công văn cho hai Hội Nam kỳ Ái hữu và Việt kiều Tương tế khuyên nên sáp nhập vào một và đổi tên khác vì chữ Cochinchinoise và Annamites không hợp thời. Các Hội viên nhóm họp, thảo luận mấy tháng trường mà không quyết định ổn thỏa. Hội Nam kỳ Ái hữu muốn giữ chữ “Ái hữu” trong tên mới, hội Việt kiều Tương tế cũng không chịu bỏ chữ “Tương tế”. Khi trình lên Tòa Khâm, ông De Raymond bỏ cả hai chữ đó, đặt là “Liên đoàn”. Ngày 3I-8-1950, Liên đoàn Việt kiều ở Cao Miên (Association des Viêtnamiens du Cambodge) chào đời, ông Đào-trọng-Sót, công chức Tòa Khâm làm Chủ tịch, Bác sĩ Thái-doãn-Thạc làm Tổng Thư ký. Liên đoàn hoạt động với hai mục tiêu:

1. Giúp đỡ kiều bào thiếu thốn.

2. Thắt chặt tình thân thiện, đoàn kết giữa các Hội viên và toàn thể Việt kiều, chia xẻ niềm vui sướng cũng như nỗi khổ đau.

Trong khoảng thời gian ngót 7 năm, Liên đoàn được kiều bào nhắc nhở qua những thành tích :

– trợ giúp kiều bào trong các vụ hỏa hoạn.

– giúp học bổng cho trẻ em nghèo ở các Tư thục.

– mở một phòng khám bệnh miễn phí cho mọi người tại trụ sở Liên đoàn (không phân biệt quốc tịch).

– tổ chức Cây mùa Xuân mỗi năm phát vải, quà bánh cho trẻ em nghèo Việt, Miên, Hoa.

– trợ cấp tiền tu bổ trường dạy chữ Việt ở các tỉnh và ở trong chùa của Việt kiều.

– trả lương hàng tháng cho các giáo viên dạy trẻ miễn phí.

– tham gia việc tổ chức gian hàng Việt-nam ở Hội chợ Quốc tế Nam Vang (I5-II-56).

– tham gia các cuộc quốc lễ của Chánh phủ Hoàng gia Cao Miên.

Hơn sáu năm, từ ngày thành lập (1950) đến khi Chánh phủ Việt-nam Cộng-hòa đặt Tòa Đại diện ở Nam Vang (2-6-1956), Liên đoàn Việt kiều có thể nói là một cơ quan thay mặt cho kiều bào đối với Chánh quyền Pháp. Số tiền chi phí hàng tháng do các nhà hảo tâm giúp đỡ, các hội viên đóng góp và Chánh phủ Việt-nam Cộng-hòa trợ cấp trong những năm 1954, 1955 và đầu năm 1956. Với ý định nắm giữ số kiều bào, Chánh phủ Việt-nam thường liên lạc với Liên đoàn Việt kiều và nhờ tổ chức này để làm môi giới tiếp xúc với Chánh phủ Cao Miên trong việc đặt Đại diện Ngoại giao. Vai trò của Liên đoàn nổi bật lên trong khoảng thời gian ấy.

Ngày 2-6-1956, Tòa Đại diện được đặt xong, Liên đoàn Việt kiều trở thành một cơ quan bán chánh thức giúp đỡ Chánh phủ Việt-nam Cộng-hòa ở Nam Vang rất đắc lực. Tòa Đại diện nhờ Liên đoàn trên mọi phương diện : chánh trị, kinh tế, xã hội, văn hóa v.v…

Song song với Liên đoàn Việt kiều, một nhóm phụ nữ cũng hoạt động về xã hội đắc lực không kém. Nhiều bà, nhiều cô trong giới công chức, thương mãi gia nhập trong Ban trị sự của Hội Hồng thập tự Cao Miên và Hội Phụ nữ tương tế do bà Hoàng Pasmi Sobhana 26 làm Chủ tịch, thường tổ chức những cuộc trợ giúp người nghèo không phân biệt sắc dân. Trí thông minh và đức tính cần cù, chịu khó của quý bà đã làm hài lòng Chánh quyền và kiều bào qua những công tác của Hội.

Ngày kỷ niệm quốc tế, các ngày lễ của Cao Miên, ngày Tết Việt-nam là những dịp tốt cho quý bà trổ tài cũng như cho một số Việt kiều nghèo thấy rằng mình không bị bỏ quên.

Việc làm của quý bà không vì sự đổi thay của thời cuộc mà bị thay đổi. Sau khi Liên đoàn Việt kiều giải tán, quý bà vẫn tiếp tục phận sự như thường.

Phụ nữ Việt kiều trong Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế ở Cao Miên. Ảnh Lê Hương.
Phụ nữ Việt kiều trong Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế ở Cao Miên. Ảnh Lê Hương.

4. Hoạt động báo chí của Việt kiều

Ngành báo chí của Việt kiều ở Cao Miên bắt đầu “đi vào lịch sử” năm 1933. Đó là tờ CAO MIÊN HƯỚNG TRUYỀN, xuất bản hàng tuần do một người Pháp tên ALLIÈS làm chủ nhiệm. Báo này sống được sáu tháng phải nghỉ vì độc giả không ủng hộ. Có thể nói vào năm ấy, Việt kiều chưa tha thiết gì đến báo chí cho lắm dù các ký giả, văn sĩ, thi sĩ đều là tay cừ. Người chủ trương xin đổi tên lại là ÉCHO DU CAMBODGE và ấn hành bằng Pháp văn. Được hơn một năm, lại đổi tên LA DÉPÊCHE và cù cưa đến năm 1952 lại đổi là LA LIBERTÉ đến ngày nay (1969). Dù không sống được lâu, nhưng người chủ trương tờ “Cao Miên hướng truyền” có thể hãnh diện là bậc khai lộ tiền phong trong ngành báo chí của Việt kiều.

Bẵng đi một thời gian, năm 1938 ông Trần-văn-Sơn Mục sư Tin lành, xuất bản tờ bán tuần san PHỤNG SỰ, rồi ra luôn hằng ngày sau vài tháng được kiều bào khuyến khích. Tờ Phụng Sự sống được hơn 2 năm, đến 194I bị đóng cửa vì đụng chạm nhà chức trách. Ông Sơn liền xin phép ra tờ nhật báo PHỤC HƯNG trong năm 194I và sống được 4 năm, đến 1945 bị đóng cửa ! Ông Sơn lại hùn với Bác sĩ Đoàn-văn-Lượm xuất bản nhật báo MIÊN-VIỆT, phát hành trong 3 năm 1945, 1946, và 1947. Trong khoảng thời gian này, tờ Miên Việt có tự ý đình bản ít lâu vì có tờ bán tuần san THỜI BÁO xuất hiện. Sau đó, trong năm 1947, vì loạt bài TÔI VÀO CHIẾN KHU, tả lại cảnh sinh hoạt của một Việt kiều theo Việt Minh, mà tờ báo bị đóng cửa, Ông Trần-văn-Sơn giải nghệ từ ngày ấy.

Cuối năm 1945, lúc Cao Miên độc lập sau khi Nhật bổn đầu hàng, Bác sĩ Vũ-kim-Vinh, dược sư Hoàng-xuân-Hồ cùng ông Dương-minh-Châu và Vũ-xuân-Đào, hai công chức Việt kiều chủ trương tờ bán tuần san THỜI BÁO. Đường lối của tờ báo là ủng hộ cuộc cách mạng đánh đuổi Thực dân ở quê hương. Báo xuất bản mỗi tuần 3 lần, bán rất chạy. Qua năm 1946, quân Pháp trở lại Cao Miên, Chánh phủ Hoàng gia mời Pháp cai trị như cũ. Báo Thời báo hô hào Việt kiều đóng góp vào TUẦN LỄ VÀNG vừa chấm dứt thì bị Thực dân đóng cửa. Mấy ông chủ nhiệm, chủ bút, ký giả trốn về Việt-nam. Rất may, không ai bị chúng bắt.

Ngưng hẳn ba năm, từ 1947 đến 1950, Chánh phủ Pháp và Cao Miên mới cho phép ông Cao-văn-Kiêm xuất bản tờ tuần báo TÂN-THẾ-KỶ. Đặc biệt nhất là báo in 3 thứ chữ : Việt-Pháp-Miên. Tiếc thay báo ra được 3 số thì đình bản vì lý do kỹ thuật. Sau đó, ông Kiêm bỏ hẳn nghề báo.

Năm 1950, giáo sư Lê-văn-Bông xuất bản tờ bán tuần san TIẾNG VIỆT chuyên về chánh trị, văn hóa, xã hội. Sau vài tháng, ông Bông phát hành hằng ngày được một thời gian, vì lý do kỹ thuật và tiền bạc phải đổi sang tuần báo. Ít lâu sau, ông Chủ nhiệm lại ấn hành thành nhật báo và giữ luôn đến ngày đình bản. Tờ Tiếng Việt sống được 17 tháng đến đầu năm 1952 thì chết vì không đủ tiền chi phí. Nguyên do có thể nói là tờ báo thiếu người chuyên nghiệp phụ trách nên không thể cạnh tranh nổi với các báo Saigon, lúc ấy được phép lưu hành ở Cao Miên. Ngoài ra vì vấn đề Việt kiều có nhiều điểm không dám khai thác nên kiều bào ít để ý đến báo chí và vai trò quan trọng của nó. Một yếu tố khác đáng buồn hơn là phần nhiều Việt kiều ở xa đô thị không thông Việt ngữ hoặc chỉ biết sơ sài làm sao hiểu nổi các danh từ mới !

Tờ Tiếng Việt chết, nhưng tiếng tăm của nó vẫn còn được nhắc nhở. Ông chủ nhiệm buồn tình về Saigon sống với nghề chánh thức của mình.

Sau khi báo Tiếng Việt đình bản vài tháng, ông Phan-Văn-Thông, một thương gia xuất bản tờ tuần báo DÂN VIỆT vào cuối năm 1952. Báo này ấn hành theo khuôn khổ nhỏ như loại Phụ nữ ngày mai, Văn nghệ tiền phong ở Saigon, nhưng nội dung hết sức nghèo nàn vì không có người viết ! Ông chủ nhiệm định dùng tờ báo để làm tiền Chánh phủ Nguyễn-văn-Tâm ở Saigon, chớ không phải vì quyền lợi của Việt kiều. Tờ báo sống vất vưởng độ một năm, đến cuối năm 1953 thì tự động chết. Ông Thông cũng hồi hương xoay nghề làm nhà in ở một tỉnh vùng Cao Nguyên.

Ngày 10-1-1954, ông Phan-Vinh-Tòng, Giám đốc một ấn quán, xuất bản tờ nhật báo VIỆT KIỀU, ấn hành 4 trang lớn như các báo ở Saigon. Tuy không thể so sánh nổi với các báo ở Việt-nam, nhưng nhờ ở “hải ngoại” tha hồ xiên xỏ Thực dân Pháp nên báo Việt kiều được đồng bào ở quê nhà mua với giá chợ đen ! Thế nhưng, dù có nói mạnh, nói bạo đến đâu, báo Việt kiều vẫn không bán chạy bằng báo ở Saigon gởi lên ! Do đó, ông Tòng không chịu nổi sự lỗ lã phải ngưng lại vào giữa năm 1954.

Bẵng đi một thời gian khá dài, hai năm sau, ông Tòng xuất bản tờ nhật báo HỒN VIỆT vào ngày 1-6-1956.

Qua ngày 2-6 ông Đại diện Chánh phủ Việt-nam Cộng-hòa lên Nam Vang nhậm Chức. Ông Tòng giao tờ Hồn Việt cho Tòa Đại diện làm cơ quan ngôn luận của Việt kiều quốc gia. Bấy giờ ông Tòng dùng tờ báo làm chánh trị hẳn và được Chánh phủ Cao Miên liệt kê tên tuổi vào “bảng Phong thần” của những nhân vật thân Saigon. Với chủ trương và đường lối này, tờ Hồn Việt bán cho Việt kiều giống như tờ Cách mạng quốc gia ở Saigon.

Giữa lúc ấy, tình hình chánh trị thay đổi và xoay chiều khác. Cao Miên độc lập, chọn chánh sách Trung lập và có vẻ ngã về phía Cộng sản nhiều hơn. Chánh phủ ngoài Bắc theo chân Chu ân Lai vào Cao Miên hồi tháng 10 năm 1956 và vận động ngầm xin xuất bản tờ nhật báo SỐNG CHUNG do ông Lý Hữu Dư một thương gia Việt kiều kỳ cựu làm chủ nhiệm. Tờ Sống Chung ấn hành 4 trang khổ nhỏ hơn tờ Hồn Việt, chuyên về chánh trị và thiên hẳn theo Cộng sản. Đó là tiếng nói của Hà nội, được Chánh phủ Cao Miên ngầm giúp đỡ về mọi mặt. Báo này bán chạy hơn báo Hồn Việt, mặc dầu trên phương diện văn chương, nghệ thuật còn kém xa. Điều này chứng tỏ Việt kiều bắt đầu thích xem báo và thích làm chính trị miệng.

Cùng trong năm 1956, một ông chủ nhà in tên Phạm văn Bảo xuất bản tờ nhật báo TRUNG LẬP, khuôn khổ bằng tờ Sống Chung, tôn chỉ cũng in như thế, nhưng nội dung bài vở, văn chương cú pháp thì hạ cấp hơn, thấp kém hơn. Báo này bán không ai mua, nên tự động rút lại hằng tuần mà cũng không thấy có vẻ gì khả quan.

Giữa lúc ấy tình hình chánh trị giữa miền Nam và miền Bắc bắt đầu gay go, hai bên dùng báo chí “đánh nhau” mỗi ngày. Tờ Hồn Việt đương đầu với hai tờ Sống Chung và Trung lập ngày thêm quyết liệt. Chánh phủ Cao Miên phải làm trọng tài xử kiện cả hai phe luôn luôn. Trên mặt pháp lý và đối với quốc tế, Chánh phủ nước bạn phải chấp thuận cho cả hai phe hoạt động trên lãnh thổ mình, nhưng ngấm ngầm bên trong thì họ binh phía Cộng sản nhiều hơn. Vì thế, để diệt hẳn bên quốc gia và tỏ rằng ta nâng đỡ khối Cộng, Bộ Thông tin Cao Miên đóng cửa một lúc tờ Hồn Việt và tờ Sống Chung vào cuối năm 1957. Thế là chỉ còn tờ Trung lập một mình múa gậy vườn hoang. Bộ biên tập Sống Chung nhào qua cải thiện tờ lá cải này, biến thành tờ Sống Chung thứ nhì. Độc giả ào qua mua tờ Trung lập. Số xuất bản mỗi ngày lối 4000 tờ. Ông Phan-vĩnh-Tòng giải nghệ, trở lại nhà in.

5. Việt kiều sống thế nào?

Việt kiều ở Cao Miên sống với đủ mọi nghề trong xã hội. Không có giới nào, nghề nào mà không có người Việt xen vào. Đặc biệt nhất là có những nghề riêng chỉ có người Việt làm được, người Miên hoặc Hoa kiều không thể bắt chước hoặc chỉ nhái theo mà thôi.

CÔNG CHỨC

Dưới thời Pháp thuộc, quốc gia Cao Miên cũng như Ai-lao nhờ một số đông công chức Việt kiều phụ trách trong các ngành Hành chánh và Quân sự. Từ thủ-đô đến các tỉnh công sở nào cũng có người Việt. Cả đến ngành Hỏa xa từ trung ương đến các nhà ga cũng do Việt kiều đảm nhận. Công chức Việt kiều được ưu đãi không khác người Miên về mọi phương diện. Đó là thời kỳ vàng son của giới trí thức Việt ở Cao Miên. Nhiều vị lớn tuổi có thành tích tốt, phục vụ trung thành, được Nhà Vua phong tước hàm và mời vào Triều dự các buổi lễ. Dạo ấy các cô gái ở miền Nam rất thích được người chồng “công chức Nam Vang” cũng như gái Hà nội ngâm câu “Phi Cao đẳng bất thành phu phụ”. Nhờ địa vị và quyền thế, một số đông công chức tạo nên nhà cửa, sự nghiệp vững vàng ở đất bạn và dính chân, dính cẳng luôn trên ấy quên mất quê hương ! Đám con, cháu hiện thời đã thành người Miên hoặc phân nửa Việt, phân nửa ngoại quốc. Một ít người dựa hơi Thực dân trổ tài ăn hối lộ, hiếp đáp người Miên, Hoa kiều và Việt kiều gây nên một tiếng xấu cho toàn thể công chức.

Dưới sự cưỡng bách trẻ con phải đi học và cố gắng đào tạo nhân tài, Chánh phủ Cao Miên có được một số công chức khả dĩ thay thế người Việt. Từ đó việc thâu nhận công chức Việt bắt đầu khó khăn nếu không nói là Chánh phủ Miên không nhận nữa hoặc chỉ nhận trong những trường hợp đặc biệt, trong những phận sự mà người Miên không cán đáng nổi. Công chức mới vào chỉ hưởng lương công nhật chứ không được nhập ngạch. Muốn nhập ngạch phải biết chữ Miên và qua một kỳ thi sát hạch hằng năm, trình độ cỡ trung học.

Đến năm 1945, phong trào kháng Pháp nổi dậy, một số đông công chức Việt kiều xin trở về quê hương giúp Tổ quốc. Các chỗ trống ấy được người Miên thay thế. Những người còn ở lại vẫn tiếp tục làm việc. Có người xin nhập quốc tịch Miên để được vào ngạch như người bổn xứ, khỏi phải thi và hưởng những quyền lợi như người Miên.

Năm 1946, Chánh phủ Cao Miên không nhận công chức Việt trừ một vài trường hợp hết sức đặc biệt như Phiên dịch viên, chuyên viên. Những người còn ở lại “truyền nghề” cho mấy người mới vào và chờ đến ngày hưu trí. Có người xin đổi về Việt-nam được hai Chánh phủ thỏa thuận và nhìn nhận cùng một ngạch. Đôi khi vì nhu cầu công vụ bắt buộc, Chánh phủ Miên lưu dụng một vài công chức kỳ cựu như trong ngành Ngân sách, Quan thuế, kỳ dư thì nơi nào cũng có người Miên đảm nhận. Một số công chức không được nhập ngạch bị bạc đãi ra mặt, lương ít mà phận sự nhiều, một mình gánh ba bốn công tác của mấy quan Miên !

GIÁO VIÊN

Dưới chế độ Bảo hộ, người Pháp chủ trương phổ biến chữ Pháp cho tất cả các sắc dân trong lãnh thổ, nên ở Cao Miên, ngoài các lớp Miên-Pháp còn có nhiều lớp Việt-Pháp, Chàm, Thái, Lào, Lolo, Khnong (Thượng) ở vùng nào có nhiều kiều dân các quốc gia láng diềng cư ngụ. Người Việt được thâu nhận làm giáo viên để dạy các lớp Việt Pháp. Ngoài ra người Miên giữ gìn phong tục rất kỹ, thích cho trẻ con vào chùa học chữ với quí vị sư sãi hơn là vào trường công. Do đó số sinh viên Trung học rất ít ; chánh phủ Bảo hộ phải thâu sinh viên Việt-nam vào. Người nào học ban phổ thông thì khi ra trường vào các công sở, người học ban Sư phạm thì làm Giáo viên. Số giáo viên thiếu cho đến nỗi vào những năm 1930, 1932, Bộ Giáo dục nhận những sinh viên thi rớt bằng Sư phạm, hoặc chỉ cần học đủ bốn năm. Tuy nhiên, về ngạch trật thì người có cấp bằng vẫn được cao hơn. Những Giáo viên Việt mới ra trường này bị bắt buộc phải học chữ Miên, trình độ Trung học, để dạy trẻ Miên. Bộ Giáo dục ấn định thời hạn một năm, nếu thầy nào thi rớt thì bị sa thải. Mỗi buổi chiều sau giờ làm việc, các thầy vào một lớp riêng học Miên ngữ một giờ. Về nhà các thầy mướn giáo viên Miên dạy thêm. Đến ngày thi đầu tiên, chỉ có một thầy đậu còn bao nhiêu đều trợt vỏ chuối ráo. Vị giáo viên duy nhất ấy tên là Lê-hoàng-Đại ở trường xã Sung Trâng thuộc tỉnh Kompong Cham. Trước số giáo viên bị đánh rớt quá nhiều, Bộ Giáo dục không thể áp dụng đúng theo Nghị định vì nếu sa thải hết thì lấy ai điền vào ? Bộ cho thêm một năm nữa và kết quả gần hết tổng số giáo viên Việt kiều đều trúng tuyển, chỉ có vài thầy không may mà thôi. Mấy thầy này vẫn được tiếp tục làm việc nhưng hưởng lương công nhật, và mỗi năm được thi một lần. Đậu thì vào ngạch ngay.

Song song với sự kiện này, Bộ Giáo dục không nhận sinh viên Việt ở miền Nam vào trường Trung học, chỉ nhận Việt kiều có cấp bằng Tiểu học ở Cao Miên. Dạo ấy sinh viên Miên đã gia tăng nhiều, khả dĩ đảm nhận trách nhiệm giúp quốc gia được. Người Việt không còn được nhận làm giáo viên chánh ngạch nữa, chỉ thỉnh thoảng Bộ Giáo dục cần một vài thầy dạy lớp Việt-Pháp với lương công nhật. Thầy nào thông Miên ngữ cũng có thể thi để vào ngạch hoặc nhập Miên tịch để được đối xử và hưởng quyền lợi như người Miên.

Đến tháng 7 năm 1945, Chánh phủ Hoàng gia Miên ra lịnh đóng cửa các lớp ngoại kiều, gom vào một chương trình thống nhất Miên-Pháp. Kiều dân không muốn học chữ Miên thì tìm các trường tư. Các giáo viên công nhật được lịnh nghỉ việc và hưởng 3 tháng lương.

Qua tháng 9 năm 1945, một số đông giáo viên Việt kiều xin trở về quê hương phụng sự Tổ quốc được hai Chánh phủ chấp thuận và nhìn nhận theo ngạch cũ. Còn lại một số ít thì một phần phải nhập Miên tịch, một phần xin biệt phái qua ngành Hành chánh, và một phần làm Giám thị trong các trường Trung học ở thủ-đô gọi là để dưỡng già chờ ngày hưu trí. Trong các trường học ở Nam Vang và các tỉnh không còn một giáo Việt nào dạy trẻ Miên nữa.

MỞ TRƯỜNG TƯ

Trước khi Chánh phủ Cao Miên thống nhất chương trình dạy học, ở Nam Vang có vài trường tư bậc Tiểu và Trung học để đón trẻ em quá tuổi không vào được trường công và các cậu thi rớt không được ngồi lại.

Việc làm có ích cho kiều bào như thế mà không thâu lợi bao nhiêu vì trẻ con được vào trường công dễ dàng. Đến lúc bãi bỏ các lớp Việt-Pháp thì các ông Giám đốc tư thục mở bao hốt bạc. Bao nhiêu học sinh không theo lớp Miên ngữ đều vào trường riêng học tiếng mẹ. Người Việt nào lại không muốn cho con học quốc ngữ ? Bấy giờ trường tư đua nhau mọc như nấm mùa mưa. Giáo viên Việt bị sa thải được mời vào điều khiển các lớp Tiểu học. Có trường nhờ Giáo sư Pháp dạy Pháp văn để cạnh tranh với nhau. Trường nào cũng sốt sắng lo cho học sinh mau khá, thi đậu nhiều. Đó là một điều đáng mừng cho giới Việt kiều. Tuy nhiên có điều cần mở dấu ngoặc là mấy ông Giám đốc tính học phí quá nặng. Năm 1946 mà “ăn” I00 đồng lớp A B thì quá quắt lắm. Nhiều trẻ nghèo chịu thất học cũng vì cha mẹ chúng không đóng nổi số bạc hàng tháng. Mỗi lần mãn niên học, các ông “lùa” hết học trò cho lên lớp trên, bất kể đứa nào học kém. Như thế, các ông có lời thêm với số học phí tăng thêm và có nhiều chỗ để thâu đám trẻ mới.

Ở Svay Riêng tỉnh lỵ gần biên giới, nơi có nhiều Việt kiều, một cô giáo trường công vừa nghỉ việc liền mở ba lớp Đồng ấu, Dự bị, Sơ đẳng trong căn nhà để xe. Một mình cô “quây” ba lớp không chuyển nên học trò có vẻ “ngáo” nhiều hơn là thông minh. Kiều bào tốn tiền toi, than phiền hoài hoài mà đâu cũng vẫn vậy. Dù sao, có còn hơn không, nếu cô ấy đóng cửa trường thì trẻ học ở đâu ? Ở các tỉnh khác không có người nào nghĩ đến vấn đề này, có lẽ vì thiếu phương tiện, hoặc thiếu người đủ điều kiện đảm nhận. Một số đông trẻ Việt phải vào trường công học chữ Miên.

Năm 1950, Chánh phủ Cao Miên bắt buộc các tư thục phải dạy chữ Miên mỗi tuần I0 giờ, rồi lần lần số giờ gia tăng cho đến năm 1962 thì chữ Việt bị bỏ hẳn. Trẻ Việt kiều bơ vơ không nơi học hành. Nhiều người lo ngại cho tương lai con mình phải tự dạy ở nhà, chứ không được phép dạy quá số 5 trẻ ! Chánh phủ Việt-nam Cộng-hòa không có quyền can thiệp để giúp đỡ Việt kiều về phương diện này !

TƯ CHỨC

Giới tư chức được ưu đãi không thua công chức. Các hãng buôn ở Nam Vang đều do người Pháp và Hoa kiều làm chủ, giấy tờ, sổ sách dùng toàn chữ Pháp nên họ rất cần Việt kiều giúp đỡ. Người Pháp, người Tàu không chịu thuê người Miên vì họ làm việc chậm chạp, ít sáng kiến. Nhiều người suốt đời chỉ giúp cho một hãng buôn mà sung sướng không thua công chức.

Năm 1957, Chánh phủ Cao Miên cấm ngoại kiều làm 18 nghề và buộc các hãng buôn phải nhận 75% nhân viên Miên, nhiều tư chức Việt kiều bị sa thải phải về Saigon hoặc sống vất vưởng ở đất bạn.

*

Ngoài ra còn rất nhiều nghề khác do Việt kiều đảm nhiệm như : Bác sĩ, thầu khoán, làm nước mắm, đạp mía làm đường, nhuộm mặc nưa, nện hàng, làm lu, làm bàn ghế trang hoàng, thợ may, thợ giày, làm ruộng, thợ máy, thợ điện, thợ hồ, thợ hớt tóc, buôn bán nữ trang, bì bún, bánh hỏi, bán sách báo, sắm tầu thủy, trồng dâu nuôi tằm, nhiếp ảnh, dạy khiêu vũ, phù thủy, hát cải lương, buôn lậu, đổi tiền, buôn bạc… nghề nào cũng đem lại nhiều lợi tức và nhiều nỗi thăng trầm.

6. Giai thoại về tướng cướp Đơn Hùng Tín

Trong giới Việt kiều, Hoa kiều và người Miên không ai không nghe danh tướng cướp Đơn-hùng-Tín ở vùng Biển Hồ đã làm điên đầu Sở Mật thám Pháp một dạo. Đó là người có lòng nghĩa hiệp thường giúp đỡ Việt kiều và người Miên nghèo rất nhiều tiền bạc, binh vực kẻ cô thế bị hà hiếp đến nỗi dân Miên tôn sùng là Vua và gọi “LUÔNG TÍN” chớ không dám gọi là ông ! Người ta đã thần thánh hóa những phương pháp của Tín đối đầu với nhà cầm quyền và cho rằng Tín có “phép”, có bùa ngải rất linh thiêng. Do đó, chuyện Đơn-hùng-Tín biến thành một giai thoại gần như huyền thoại của giới Việt kiều.

Tướng cướp Đơn-hùng-Tín tên thật là Lê-văn-Tín, thứ ba, nên gọi là Ba Tín, gốc ở rạch Cái Sao, làng Nhị Mỹ, tỉnh Kiến Phong ngày nay, lúc thiếu thời làm tá điền cho một địa chủ. Dưới thời ấy, các ông chủ điền thường cậy thế bắt nạt người mướn ruộng khiến Ba Tín bất bình, thù người giàu độc ác nên có ý bỏ nhà đi tìm thầy học nghề… ăn cướp để làm một Đơn-hùng-Tín ở Việt-nam, đóng đại bản dinh trên một chiếc ghe lường, thả xuôi ngược trong Biển Hồ. Mục tiêu chính của Tín là mấy tên trọc phú Hoa kiều chuyên môn mua rẻ bán mắc, cạo vét mồ hôi nước mắt của dân Miên và Việt. Tín “mượn” của nhà giàu phân phát cho kẻ nghèo mà Tín gặp. Có lần, Tín gọi một ngư phủ kéo lưới ở Biển hồ mua vài con cá. Ông già Miên chất phác, thấy Tín đi ghe có vẻ sang trọng nên không lấy tiền. Cảm động trước nghĩa cử ấy, Tín lấy ô xúc bạc đồng (loại bạc 27 gam) đổ qua xuồng ông lão. Tín đổ nhiều đến nỗi, ông già phải la lên : “Thôi ông ơi ! Chìm xuồng tôi bây giờ !”

Ba Tín hoạt động ba năm ở Cao Miên rồi bặt tin một thời gian. Sau đó đồng bào ở miền Nam lại nghe nói Tín xuất hiện ở miệt Mỹ Tho và bị Mật thám Pháp bao vây bắn chết giữa giòng Cửu long. Nhưng theo lời vài bô lão Việt kiều biết mặt Tín thì người xưng là Ba Tín chết ở Mỹ Tho không phải là Ba Tín thật ! Người ta nói rằng Ba Tín đã giải nghệ vào núi, sang Thái lan, hay lên rừng đi tu. Năm 1945, khói lửa nổi lên, có người tản cư vào vùng Cá Côn thuộc tỉnh Kompong Cham gặp một ông đạo Việt tu theo phái Ta bà ngồi dưới cội cây. Ông đạo xưng là Ba Tín và thuật chuyện mình đã lánh đời từ ngày ấy đến nay. Ông hỏi thăm việc thay đổi dưới Phnom Penh và cuộc cách mạng ở quê nhà. Người gặp nhìn biết Tín khi nhớ lại những bức hình tập nả treo khắp các nẻo đường hơn 30 năm về trước. Nhà Sư cho biết mấy mươi năm nay ông chuyên tụng kinh sám hối để chuộc những lỗi lầm đã bất ngờ gây nên trong những năm “hành nghề”. Hai năm sau (1947), một người khác gặp Tín trong một khu rừng thuộc tỉnh Kompong Speu. Tín cho biết mình tu theo phái Ta bà, nay đây mai đó, đi khắp các nơi hành đạo, và không bao giờ ra thành phố. Từ đó, không nghe ai nói đến nhà Sư này nữa.

Tìm hiểu văn hóa Việt Nam:
Lịch sử di cư, chính trị và đời sống của Việt kiều tại Thái Lan
Cách xưng hô và thứ bậc trong gia tộc và xã hội Việt Nam xưa
Tìm hiểu về các làng nghề truyền thống Nam Bộ

7. So sánh Việt kiều và Hoa kiều trên vài phương diện

Cùng sống nhờ trên đất Miên. Việt kiều và Hoa kiều có nhiều điểm trái ngược với nhau, nhất là trên phương diện xã hội và kinh tế.

Về cách tổ chức của một số kiều dân ở xứ người, Việt kiều cần phải học hỏi và bắt chước Hoa kiều rất nhiều để củng cố và thắt chặt tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau.

Về mặt kinh tế thì Việt kiều chịu thua Hoa kiều hoàn toàn. Có thể nói Hoa kiều nắm hết mọi ngành thương mãi ở Á châu chứ không phải chỉ riêng ở Cao Miên. Tuy nhiên, người Việt vẫn có những nghề riêng biệt và những cá tính đặc sắc của mình.

Cư ngụ trên đất Miên, Việt kiều rất ít khi, có thể nói là không bao giờ cưới vợ Miên. Người Miên cho đó là tánh tự tôn mặc cảm, cho rằng người Việt chê họ thấp kém, xấu xí. Và cũng vì lẽ đó mà họ ngầm có ý bất hòa với Việt kiều và mỗi khi có chuyện xích mích thì họ thẳng tay “cư xử” !

Trái lại, người Tàu không chọn lựa kỹ lưỡng như ta, vừa chân ướt, chân ráo vào lãnh thổ Miên là vớ ngay một cô vợ để nhờ vã. Người Miên giao dịch với người Tàu gần I000 năm trước nên rất thích tánh siêng năng, cần cù và tin chắc rằng dù một Hoa kiều bán cà rem hay mua ve chai cũng có ngày thành xì thẩu, ông chủ. Họ không bao giờ nghĩ đến vấn đề người Tàu đồng hóa họ trong nếp sống và biến lần lần họ thành thiếm Xẩm. Những đứa con lai, gọi là “con cháu khách” hay “đầu gà đít vịt” hoàn toàn sống theo cha, mất hẳn gốc của mẹ. Đó là chưa kể đến việc ông Tàu đó đã có vợ sẵn ở quê hương trước khi vác cái đòn gánh lên đường ! Khi có đứa con trai đầu lòng, người Hoa kiều đem về xứ cho học chữ Tàu và cưới vợ Tàu. Rất ít người cho con cưới vợ Miên như mình vì lẽ chúng nó không cần nhờ bên vợ như bố chúng lúc mới di cư. Lẽ cố nhiên, đám con của chúng sau này không có một vẻ gì của người Miên cả !

Những đứa con gái “đầu gà đít vịt” rất đẹp, Việt kiều có người thèm rỏ dãi, nhưng khó mà rờ tới vì Hoa kiều luôn luôn gả con cho đồng bào họ để giữ giống ! Thảy hoặc họ có cần gả cho người Miên thì ít nhất cũng là hàng quan lớn, nếu không là Hoàng thân trong Triều.

Về mặt giao thương với người Miên, Hoa kiều nắm hết mọi ngành sản xuất trong nước. Có thể nói người Miên làm để Tàu hưởng. Từ thủ-đô Nam Vang đến các tỉnh lỵ chỗ nào cũng có Hoa kiều nắm giữ các giềng mối buôn bán từ lớn đến nhỏ, từ cửa hàng đồ sộ đến gánh hủ tiếu, thúng đậu phộng rang. Tiếng là xứ Miên mà việc buôn bán của người Miên chỉ loay hoay ở mấy sạp bán chăn dệt tay, sarong, khăn tắm, gối dồn gòn, trái cây bổn xứ v.v… Chính người Miên có chút ít ưu tư về dân tộc họ cũng chán nản lắc đầu. Những thổ sản, lâm sản người Miên làm được bao nhiêu đều đem hết cho Hoa kiều bán với giá rất rẻ, rồi khi cần dùng mua lẻ lại với giá đắt sắp hai, sắp ba. Cái sự cân thiếu, đo lường là việc rất thường đối với bọn con buôn. Người Miên cầy cục làm được hột thóc chở bằng xe bò ra vựa cho họ. Lập tức họ reo mừng dọn cơm cho ăn, đãi rượu cho uống thẳng tay, kỳ cho mắt mờ, đầu óc quay cuồng họ mới đong thóc đem cân và trả tiền. Liệu một nông dân chất phác Cao Miên sau khi uống hàng nửa lít rượu đế rồi có còn đủ trí sáng suốt để phân biệt cái cân nào già, cân nào non và xem rõ mặt cân có đúng hay không ? Đã bán rẻ cho họ lại còn bị ăn gian theo lối “khoa học” như thế, trách nào dân Miên quanh năm vẫn sống cuộc đời nghèo khổ !

Những con buôn Hoa kiều đặt “cạm bẫy” khắp hang cùng ngỏ hẽm, từ trong rừng sâu đến đồng ruộng, nơi nào có vật gì bán được là có họ. Chỉ có họ mới mua được của dân Miên và đem ra tỉnh lỵ, thủ đô bán lại cho đồng bào họ mà thôi. Việt kiều hay ngay cả người Miên đừng mong tranh giành được nguồn lợi ấy. Ví như có một người nào có một số vốn khá khá mở cửa hiệu mua sản phẩm như họ tức thì họ họp nhau lại chịu mất một số lời mua với giá thật đắt và bán lại thật rẻ, để cho cửa hiệu kia phải lỗ vốn và tự động rút lui, nhường lại cả cho họ. Một việc nhỏ đã xảy ra ở Nam Vang đủ thấy điều lợi hại của họ. Năm 1950, một Việt kiều ở tỉnh Kompong Speu mua được một số da gấu, da cọp, sừng nai, mật gấu, ngà voi của những tay thợ săn Miên. Đây là lần đầu tiên, gặp món bở, người ấy hí hửng đem đến Nam Vang bán cho người… Tàu !

Đối với những vật hiếm có này, người Hoa kiều rất thích mua, nhưng vì nguồn lợi đáng lẽ phải qua tay một đồng bào Hoa kiều ở tỉnh đó, tại sao lại lọt vào một Việt kiều, nên họ nhất định không mua. Người bán đi khắp thủ-đô, hỏi khắp cửa hiệu, họ một mực lắc đầu. Ngày này qua ngày khác, người ấy ăn lần hết tiền túi, túng thế phải năn nỉ họ bán đổ, bán tháo để về nhà ! Chừng ấy họ mới mua với giá ve chai kèm theo một bài học, khuyên đương sự đừng dại dột đi buôn kiểu đó nữa. Dù họ không nói, nạn nhân cũng không ngọng gì tái phạm lần thứ hai !

Tuy nhiên trong những món lợi nho nhỏ, Việt kiều giao thiệp với người Miên một cách hóm hỉnh đáng nhắc nhở làm quà bạn đọc.

Hằng năm đến mùa gió Bấc, nông dân Miên ra thủ đô Nam Vang mua cá làm mắm bồ-hóc (prahoc), món quốc hồn của họ. Mỗi gia đình ngồi trong một chiếc xe bò, hai bên cột hũ, lu, thùng đựng mắm, trong xe đựng gạo xay tay, giã bằng chày vọt. Họ nằm ngủ trên gạo dưới một lớp đệm, y như ngủ trên nệm bông. Đám trẻ con đái trên đó là sự thường. Họ đậu xe thành từng xóm như dân du mục, nấu nướng ở ngoài trời. Nơi tập họp là mảnh sân rộng ở xóm Cầu lầu, gần bờ sông Tonlésap.

Việt kiều làm nghề hạ bạc, đánh cá được đem lại đổi gạo. Người Miên thích nhàn không chịu mất công làm cá, mướn người Việt chặt đầu đánh vảy luôn. Công mướn trả bằng gạo. Việt kiều chặt đầu cá nấu dầu thắp đèn, đổi gạo của người Miên. Người nào không có cá thì mua muối đổi gạo, rồi đem gạo xuống chợ bán lại cho người Miên.

Người làm mắm chỉ cần có cá và muối là đủ. Cái vòng lẩn quẩn ấy cứ loanh quanh hằng năm, thêm vào ngân sách gia đình của một nhóm Việt kiều số tiền đáng kể.

8. Bạn biển

Nói đến Việt kiều ở Cao Miên phải nghĩ ngay đến cả trăm ngàn người “bạn biển” là dân đánh cá ở Biển hồ, và hàng ngàn dân “công-tra” (contrat) ở các đồn điền Cao su Kratié và Kompong Cham.

Câu ca-dao của người Việt tiền phong lên Cao Miên vang mãi trong tai kiều bào như một lời sấm :

Nam Vang đi dễ khó về,

Trai theo bạn biển, gái về Tào-Kê.

đánh dấu ngày bước chân lên đất Miên của một nhóm thanh niên với lời nguyện tìm một số tiền rồi áo gấm về làng. Nhưng thực-tế giết mộng đẹp, vùng nước bao la của Biển hồ Tonlésap đã khóa chân “anh hùng” hơn một thế kỷ, đến nỗi đám con, cháu hiện thời không biết chốn chôn nhau của Tổ tiên là đâu. Đó là tình cảnh của phái nam, còn phái nữ thì các cô gái Việt mỹ miều vì sinh kế phải rời nhà phiêu bạt đã biến thành mồi ngon cho các ông Tào-kê, hạng xì thẩu Hoa kiều giầu sụ, để rồi lần lượt cho ra những đứa con Tàu lai Việt sống trên đất Miên, mất đứt giống nòi.

Biển hồ ở Cao Miên là một hồ nước rộng mênh mông giống hình con số 8, nằm giữa lãnh thổ, bề dài hơn I60 cây số, bề ngang nơi rộng nhất 34 cây số ; đầu ở tỉnh Siêm Reap, cuối ở tỉnh Kompong-Chehnang, bên phải là tỉnh Pursat bên trái là tỉnh Kompong Thom. Người Miên gọi Biển hồ là “BƯNG TON LÊ SÁP” nghĩa là hồ nước ngọt. Danh từ Biển hồ là của người Việt đặt ra, lâu ngày thành quen cũng như thủ-đô Phnom-Penh ta gọi là Nam Vang vậy. Người Tàu dịch chữ Tonlê là Thôn lôi, nên gọi là Thôn lôi hồ. Mỗi năm nước sông Cửu long dâng lên ngập đầy hồ trong 6 tháng rồi lần lần rút sạch, bày lòng hồ cạn khô như bãi cát hoang. Dưới thời Chánh phủ bảo hộ, người Pháp chia mặt hồ ra từng ô cho đấu giá. Người bỏ tiền cao hơn được quyền đánh cá suốt mùa. Thể thức này vẫn được người Miên dùng đến ngày nay. Chủ nhân ông cất nhà sàn ven bờ và nhà bè trên mặt hồ, ngoài ra còn sắm nhiều chiếc ghe lớn để rộng cá, chứa dụng cụ. Căn nhà bè luôn luôn xê dịch theo đoàn ghe. Đám nhân công gọi là bạn biển thì mỗi gia đình sống trên một chiếc ghe nhỏ, cột theo ghe của chủ. Rất ít người sắm nổi một căn nhà bè mặc dầu ai cũng muốn có một mái lá che nắng, che mưa. Một năm, người bạn biển bù đầu làm việc suốt sáu tháng nước đầy còn sáu tháng sửa chữa đồ nghề sắp đặt cho mùa sau và nghỉ ngơi, chơi bời.

Trong cuộc phiêu lưu tìm đất sống, kiều bào ta khám phá một khu mầu mỡ, một kho tàng vô tận khả dĩ bảo đảm một đời sống sung túc. Gia chi dĩ những chủ nhân ông lại niềm nở, ân cần tiếp đón họ như bậc minh chúa cầu hiền tài thì có ai từ chối được. Nhận lời, nhận tiền, lãnh phận sự, người bạn biển vô tình ghép cả đời mình vào nghề mới, quanh năm lưới cá xẻ khô đến ngày xuôi tay nhường cho bầy con tiếp tục. Từng đợt, từng đợt, ông rồi cha, rồi con, rồi cháu, nhiều gia đình nối nhau hàng bốn đời làm, năm đời “bạn biển” cho đến bây giờ và không biết còn đến bao giờ.

Để giữ người giúp việc năm này qua năm khác, người chủ trả lương hàng năm và đặc biệt là cho mượn trước từ 6 tháng, 8 tháng hoặc 10 tháng. Người bạn biển bị bó chân vì loại giao kèo ấy nên không thể nghỉ nửa chừng và cứ hết năm này thì mượn sang năm khác, thành thử suốt đời không thoát khỏi kiếp làm công ! Giá tiền mướn tùy theo sức lao động : trai tráng, người lớn tuổi có kinh nghiệm thì giá cao, đàn bà, trẻ con thì giá thấp. Ai cũng làm được vì công việc rất dễ dàng chỉ có quá khổ cực mà thôi. Vì thế, trong một gia đình từ đứa bé 9, I0 tuổi đến người già không ai ở không, từ sáng đến tối và từ tối đến sáng, từ ngày nước mới lên đến ngày nước rút cạn. Người bạn biển chỉ có lưới cá và xẻ khô. Cá đánh được một phần rộng trong ghe, trong bè chở đi Nam Vang bán tươi, số còn lại thì xẻ, muối phơi chứ không thể làm mắm hay món gì khác vì cá nhiều quá họ không có đủ thì giờ làm. Cá đánh bằng lưới bao tròn lại một khoảnh bằng cái sân rồi xúc lên ghe chặt đầu, mổ bụng, bỏ ruột, ướp muối đem phơi ngay. Cá nhiều đến nỗi có khi người bạn biển lén chủ dỡ lưới cho cá ra bớt để đỡ mệt. Đem cá lên ghe, cả gia đình người bạn biển ráp lại chặt đầu, mổ bụng. Người nào cũng làm như cái máy, làm suốt ngày đêm đến nỗi mỏi mệt thái quá, mắt mở trao tráo mà ngủ hồi nào không hay.

Biển hồ cực lắm em ơi !

Ban đêm xẻ cá, ban ngày phơi khô.

Cổ nhân đã than hai câu này để phác họa thực cảnh muôn đời của nghề bạn biển. Hơn một thế kỷ rồi hàng trăm ngàn kiều bào đã kéo dài kiếp sống bập bềnh trên sóng nước, quây quần thành một xã hội. Một năm họ làm việc 6 tháng nước ngập, còn sáu tháng lo sắp đặt dụng cụ cho mùa sau và nghỉ ngơi cờ bạc. Nhiều người lao đầu vào sòng đen đỏ để nướng sạch túi tiền mồ hôi, nước mắt và đâu lại hoàn đấy, cảnh vay tiền trước để gửi tấm thân cho chủ lại tái diễn cũng như những năm đã qua.

Có lẽ vì thấy số Việt kiều sống trên Biển hồ với nghề đánh cá quá đông nên Chánh phủ Cao Miên ra lịnh cấm hành nghề này trong số 18 nghề cấm ngoại kiều. Lịnh trên đã làm điêu đứng nhiều chủ nhân cũng như bạn biển. Người làm chủ phải áp dụng lối qua mắt nhà cầm quyền là thuê thêm nhân công người Miên để làm bình phong cho những tay chuyên môn Việt kiều đã có kinh nghiệm từ… thuở bé đến lớn. Tuy vậy, một số đông Việt kiều phải thất nghiệp, đành rời bỏ một mặt hồ rộng xuôi về Nam, hoặc sống núp lén trong những con rạch nhỏ để tiếp tục với nghề cổ truyền tìm cái sống qua ngày.

CHÀI, LƯỚI

Ngoài vùng Biển hồ, ở dọc theo bờ sông Cửu Long có nhiều nơi quy tụ kiều bào sống với nghề hạ bạc. Đại khái như vùng Péam Chor (Vĩnh Lợi Tường), Banam thuộc tỉnh Prey Veng, vùng Chlong tỉnh Kratié, vùng sông lớn thuộc tỉnh Kompong Cham, xóm Biển ở phía Bắc Nam Vang 7 cây số. Trong những con sông, rạch cũng có một số Việt kiều quây quần thành xóm ở trên bè hay trên ghe như trước tỉnh lỵ Kompong Thom, Pursat. Người ta dùng đủ mọi khí cụ để bắt cá, phần nhiều là đồ nghề cổ lổ từ ngàn xưa và bắt vô số cá, đến nỗi loài thủy tộc sanh sản không kịp, số sản xuất sụt bớt lần hồi. Người Miên lo ngại cho tương lai đã ra 5 điều cấm để giữ cá :

1. Cấm tuyệt dùng đồ nghề bắt được nhiều cá nhất mà luật lệ đã ngăn cấm.

2. Phá hết những đống chà chất ở cửa Biển hồ để tránh lối bắt quá nhiều cá ngoài sông cho chúng vào biển sanh sản thêm.

3. Trừng phạt thật nặng nề kẻ nào đánh cá trong 3 tháng cấm để cá sanh.

4. Cấm phá rừng ở ven Biển hồ để cá vào đẻ.

5. Truyền dạy cho dân chài không nên giết hại cá con hoặc cá còn nhỏ quá và khuyến khích họ nuôi cá ấy đến lớn.

BẮT CÁ THEO CÁC NGỌN RẠCH

Mỗi năm một lần, nước sông dâng lên cao, tràn ngập đồng ruộng. Chánh phủ Miên đấu giá bán các ngọn rạch dọc theo bờ sông. Người trả cao nhất được quyền bắt cá trong rạch năm ấy. Lối hạ tuần tháng 9 d.l. người ta chận các đầu rạch bằng đăng. Khi nước rút ra sông, bao nhiêu cá đều dồn vào đấy. Nơi mỗi miệng rạch có cái rọ lớn gọi là “xạp” để phía ngoài và có chừa đường cho cá chạy vào. Mỗi lần cá “chạy” nghĩa là cá dồn về rạch thì hàng chục người cầm ki xúc chuyền nhau đổ vào ghe bán liền cho người Miên đổi lấy lúa. Số cá còn dư họ bán cho các xưởng làm nước mắm. Cứ nửa tháng, hai mươi ngày thì cá chạy một lần, chủ và nhân công làm trối chết bất kể ngày, đêm. Có khi cá nhiều quá, làm không kịp, họ phải kêu lối xóm đến xúc bớt để khỏi sập đăng.

LÀM NƯỚC MẮM

Hơn hai mươi năm nay, nghề làm nước mắm bằng cá linh đã thành một nghề chánh thức của Việt kiều. Hằng năm cá linh sanh sản quá nhiều đến nỗi Việt kiều nấu dầu thắp đèn chớ không biết làm sao tiêu thụ cho kịp. Vào cuối năm 1945, việc giao thương giữa Việt và Miên gián đoạn, Việt kiều lập xưởng làm nước mắm bằng loại cá thặng dư này. Người ta phải nhờ những ông thợ làm nước mắm cá biển ở Phan Thiết, Phan Rí và áp dụng giống như phương pháp làm bằng cá biển. Người ta đổ cá vào thùng lều, cứ một lớp muối, một lớp cá, rồi gài ém lại chờ thịt cá chín nát mới rút nước đổ vào thùng lại. Đổ nhiều lần như thế cho chất cá ra thật hết, bấy giờ mới lọc lấy nước trong, bắt đầu từ nước nhỉ, nước nhứt, nước ngang và nước xác. Thùng lều là một thứ thùng gỗ thật dầy hình ống, cao lối 3 thước, đường kính lối 2 thước. Dưới chân thùng có một cái lù đóng nút bằng cây để rút nước mắm ra. Tuy nước mắm cá linh không có nhiều chất đạm (azote) và không ngon bằng nước mắm cá biển, nhưng nhờ sự cần dùng bắt buộc lại rẻ hơn nước mắm cá biển nhiều nên số sản xuất gia tăng vùn vụt. Nhiều người bắt chước làm theo, trong số ấy có một vài ông Hoa kiều lớn vốn, mở xưởng to rộng với lối tổ chức đại quy mô.

9. Phu cao su

Nhắc đến số Việt kiều làm phu cho Sở Cao su là khơi lại một tình cảnh vô cùng bi đát của một nhóm đồng bào xấu số, giữa thế-kỷ 20 mà phải sống dưới một chế độ gần như nô lệ hơn 40 năm rồi, và đang kéo dài chưa biết đến bao giờ mới chấm dứt.

Kỳ thủy vào năm 1920, người Pháp lập Công ty Đất đỏ (Société des Plantations des Terres rouges) ở Saigon và Cao Miên, khai khẩn rừng hoang tạo thành vườn cao su. Ở Cao Miên, trụ sở Công ty đặt tại xã Mimot thuộc tỉnh Kompong Cham, coi sóc các vườn ở xã Krek, Chup, Brek Kâk, Chamcar An đông, Péamchang và Snoul thuộc tỉnh Kratié. Năm 192I, công ty bắt đầu trồng cao su. Vì lẽ những vườn này ở giữa nơi rừng sâu, nước độc nên người Việt miền Nam ít dám vào làm. Ở thành phố vẫn có nhiều việc sống dễ dãi hơn. Vì thế, những người điều khiển công ty đặt kế hoạch mộ phu ngoài Bắc Việt là nơi đồng bào đang đói kém. Đám lao công đáng thương này bị bọn Thực dân lường gạt bằng chiêu bài ca tụng sự sung sướng ở “thiên đàng đất đỏ”, nào là làm việc có lương đầy đủ, ai có nghề nào làm nghề ấy, từ dân thầy, dân thợ đến hạng lao công, nào là khi đau có nhà thương, có Bác sĩ săn sóc, nào là tự do chơi cờ, cờ bạc vân vân. Những người dốt nát lãnh ngay số tiền năm mươi đồng (50$) và ký chữ thập hoặc điểm chỉ vào tờ giao kèo mà họ không biết đã viết sẵn gì trong ấy. Tờ giao kèo tiếng Pháp gọi là contrat, danh từ ấy được ghép vào đám phu mới tuyển thành ra “dân công tra”. Sở dĩ họ phải gọi riêng như vậy vì trong xã hội Cao su có hai hạng người giúp việc : một nhóm dân miền Nam làm thầy, thợ được thâu nhận một cách tự do, nghĩa là không muốn tiếp tục thì xin nghỉ ngay, và một nhóm tuyển bằng tờ giao kèo có những điều kiện vô cùng quái ác.

Chuyến tầu đầu tiên chở phu Cao su ngoài Bắc vào Cao Miên năm 1924 đánh dấu một bước đi không hẹn ngày về của 5000 công dân Việt-nam chịu làm nô lệ cho Thực dân Pháp mãn đời mình và truyền lại cho con, cho cháu đến ngày nay. Người ta đã mệnh danh buổi biệt ly ấy là “ra đi để bỏ xác ở Nam kỳ”. 28

Có người biết chữ cũng không được xem quyển sổ ghi quyền lợi của người giúp việc trong sở, nghĩa là kẻ nào đã lãnh tiền rồi thì biến thành con vật cho chủ nhân ông toàn quyền sai khiến theo ý muốn. Một chuyện xảy ra có thể làm bằng chứng cho sự kiện trên : Một sinh viên lớp Công chánh ở Hà nội thiếu hụt tiền bạc và uất ức việc gì không hiểu, nhận thấy được lãnh trước 50$ và sẽ được làm việc theo ngành chuyên môn liền ký giao kèo. Khi vào Sở, thầy Su (Surveillant : Cai cu li) điểm danh, cho số và phát cây cuốc, cậu học trò òa lên khóc. Người chủ Pháp hỏi nguyên do, bằng lòng cho cậu đem tiền chuộc giao kèo. Nhờ có người chú ở Saigon giúp bạc, nếu không, cậu phải làm cu-li đến mãn đời.

Số bạc lãnh trước bị trừ lần mỗi tháng một ít đến hết hạn 3 năm hay 5 năm tùy theo sự thỏa thuận của người lãnh việc. Đàn ông lãnh mỗi ngày 0$45, đàn bà 0$30. Nửa tháng phát tiền một lần. Chúa nhật nghỉ không có lương, cũng như rủi ro bị đau ốm nằm nhà hay nằm bệnh viện ngày nào thì trừ ngày ấy. Thỉnh thoảng có lễ được nghỉ, phải làm lại ngày chúa nhật để trừ ! Chủ sở phát gạo mỗi người 24 ký 800 một tháng và cho căn nhà ở. Nước máy và củi thì xài tha hồ. Gọi rằng cho gạo chứ sự thật là chủ đã trừ trong số lương, ví dụ phải trả 0$55 mà chỉ trả 0$45

4 giờ sáng, thầy Su đánh tầm (miếng sắt bằng 3 bàn tay, gõ bằng khúc sắt nhỏ) gọi dân thức dậy nấu cơm, sửa soạn ra điểm số.

5 giờ ra sở làm cho kịp giờ mủ cây chảy ra, nếu để trễ thì không hứng được. Mỗi tên dân có bổn phận phải cạo bao nhiêu gốc cây tùy theo sự cắt đặt của người Cai coi sóc một vùng. Họ dùng chiếc đục cạo vỏ cây theo đường quanh khu ốc có sẵn. Hễ cạo quá sâu, phạm vào hư gỗ thì bị đòn, bị bớt tiền lương, còn cạn cạn không có mủ cũng phải ăn roi. Nghề này dân phu miền Bắc học tập rất kỹ và làm thành thuộc. Công phu mất mấy năm trời chứ không ít vì từ ngày vào Sở (năm 1924) đến năm 1927 mới bắt đầu lấy giọt mủ Cao su đầu tiên. Cao su trồng 7 năm mới có mủ. Trong 3 năm đầu, dân phu dọn rừng, trồng thêm cây mới và học nghề.

Đi khắp một vòng hết số cây, họ trở lại cây đầu thì mủ đã nhểu ra đầy chén. Họ trút từng chén mủ vào thùng, khi trút hết phần của họ thì vừa đúng I2 giờ. Họ gánh những thùng mủ về trại cho xe hơi chở về nhà máy rồi về nhà nghỉ trưa.

1 giờ 30, họ tựu lại điểm số như buổi sáng. Đúng 2 giờ thì ra vườn sửa chén lại cho ngay ngắn và lượm thứ mủ rơi rớt quanh gốc cây gọi là mủ giây, mủ đất cuốn tròn lại đưa về sở làm cờ-lếp (crêpe). Công việc nhẹ nhàn này kéo dài đến 5 giờ 30 mới xong.

Phận sự của người phu cao su xét ra thì nhẹ nhàng, nhưng đó là thời kỳ hưởng thụ nghĩa là sau mấy năm khai phá rừng, trồng cây nhỏ và chăm sóc đến ngày có mủ. Cái khổ của họ là sơn lâm chướng khí, bịnh rét rừng, bịnh lớn bụng, thuốc men thiếu kém hoặc trị không dứt và trội hơn hết là họ bị ép mình vào những điều kiện độc ác của tờ giao kèo, vô hình chung họ hóa thành tên nô lệ cho người chủ từ ngày ký tên nhận 50$ đến mãn đời. Để chân vào Sở, lãnh một số hiệu rồi, dân phu được chủ cấp cho mảnh giấy chứng nhận là nhân công của Sở, suốt đời phải ở trong phạm vi của vườn Cao su không được đi đâu. Họ là Việt kiều ngụ trên đất Cao Miên nhưng Chánh phủ Miên không biết đến họ, không cấp một thẻ căn cước, thuế thân, bài chỉ gì cả. Trên tờ giao kèo, họ là dân của Sở Cao su của người Pháp, sống chết trong tay người chủ Sở. Thỉnh thoảng có việc gì phải ra khỏi Sở, họ được phép đi ba ngày mà thôi. Chủ Sở cấp cho mảnh giấy phép trình Công An Cao Miên kiểm nhận rồi hết hạn phải trở về Sở. Đúng là tên tù giam lỏng như ở Côn đảo. Họ không được quyền đi khỏi Sở 5 cây số vì ra ngoài phạm vi vườn Cao su thì Công An Miên sẽ bắt ngay ! Bắt vì không có giấy tờ cư ngụ hợp pháp trong lãnh thổ Miên.

Mắc chân vào cái vòng xiềng xích ấy, người phu Cao su là một miếng mồi ngon cho bọn Thực dân khai thác đến tận cùng. Làm việc nặng nhọc phải thức từ 4 giờ sáng, đồng lương ít ỏi, thuốc men thiếu kém, bị hiếp đáp, chà đạp như con vật, đôi khi bị giết chết mà không được bồi thường. Bị chà đạp thái quá, bị mất hẳn tự do, hoàn toàn tuyệt vọng vì không thể nào thoát khỏi “địa ngục đất đỏ”, người phu Cao su lao đầu vào chỗ chết : cờ bạc, hút thuốc phiện, giết Cai phu để bị giết, tự vận. Nhiều người đi đẵn gỗ xong, ngồi dưới gốc chờ cây ngã xuống cho chết chứ không buồn tránh.

Tuy nhiên, cũng có một số người an phận, nhẫn nhục sống chờ một ngày mai. Họ lập gia đình, sanh con đẻ cháu cho nối nghề của họ, rồi bỏ xác ở Nam kỳ, để lại cho bầy trẻ một di sản bất di bất dịch của họ đã thụ hưởng.

Năm 1945, phong trào kháng chiến bừng dậy, Việt kiều ở các tỉnh khác cho rằng đấy là một dịp may để đồng bào phu Cao su thanh toán món nợ máu. Nhưng Thực dân, được Chánh phủ Cao Miên rước về như ông cha đi vắng mấy tháng, lại dùng bàn tay sắt bóp chẹt ý định của nhóm người đáng thương kia, lấy cớ họ là người Bắc Việt ; Thực dân giam hẳn họ trong Sở với sự đồng ý của Cao Miên. Không người nào được phép ra khỏi Sở nếu không có giấy phép của chủ và sự đồng ý của Ty Công an Miên. Và tình trạng nô lệ lại tiếp tục dưới sự kiểm soát có phần gắt gao hơn.

Năm 1953, Cao Miên độc lập, người Pháp vẫn được tự do khai thác tài nguyên trên đất Miên, nên tình trạng của dân phu Cao su không có gì thay đổi, 5000 dân tuyển mộ từ năm 1924 đến năm 1953 đã mãn giao kèo từ I5 đến 20 năm rồi mà vẫn phải kéo dài kiếp sống nô lệ trong phạm vi của Thực dân Pháp. Không một ai có mảnh giấy của Chánh phủ Cao Miên chấp nhận là Việt kiều sống trên đất Miên hàng 30 năm rồi !

Năm 1958, Chánh phủ Cao Miên bắt buộc các xí nghiệp tư phải nhận 75 phần trăm người Miên, chủ vườn Cao su sa thải thầy, thợ, lao công Việt kiều nhóm Nam kỳ, cho họ hồi hương hay đi tỉnh khác, còn nhóm phu Bắc Việt thì vẫn phải ở trong phạm vi Cao su mà không có việc làm ! Thực dân không buồn can thiệp với chánh quyền Miên cấp giấy tờ cho họ cư ngụ tỉnh khác hoặc về xứ, cứ bỏ mặc họ tự xoay sở lấy !

LÊ HƯƠNG

Leave a Reply